Kiến thức về trang thiết bị BB đến từ một chuyên gia của hãng Buterfly

NTBB

Super Moderators
NTBB xin lập chủ đề này để giới thiệu những cuộc trao đổi giữa "Bản tin Butterfly" với ông Taisei Imamura, người phụ trách khâu dịch vụ của hãng Butterfly về các trang thiết bị, các nguyên vật liệu trong bóng bàn. Hy vọng cung cấp thêm cho ACE những kiến thức cơ bản và cũng rất hấp dẫn về những gì được gọi là "vũ khí", là "vợ", là "người yêu"... của các pingpong thủ.

Đây là lời giới thiệu của tạp chí Butterfly trong số thứ nhất, ra tháng 5 năm 2003:

Taisei Imamura (45t – tính đến năm 2003, khi tạp chí Tin tức Butterfly số 1 ra đời - ND) làm việc cho hãng Butterfly từ năm 1980. Là một người làm công tác dịch vụ, ông chăm sóc các hợp đồng giữa Butterfly và những khách hàng trên toàn thế giới và hoạt động mạnh mẽ trong lĩnh vực phát triển các sản phẩm mới. Mọi người coi ông là một trong những chuyên gia tốt nhất và giàu kinh nghiệm nhất về nguyên vật liệu (thiết bị bóng bàn - ND). Họ tin tưởng vào lời khuyên của ông và - như tất cả những người chơi bóng bàn thường làm - Hỏi đi hỏi lại cùng một câu : "Cốt vợt nào và những loại mặt mút nào là tốt nhất để tôi chơi? ". Trong cuộc trò chuyện với "Tin tức Butterfly" Taisei Imamura đã đưa ra nhiều lời khuyên, các thông tin và ý tưởng về "Vợt – các nguyên vật liệu".

11WCBWP.jpg


Xin mời các bạn đón đọc những thông tin liên quan trong các bài dưới đây.

Cảm ơn sự quan tâm của các bạn !
 
Last edited:

NTBB

Super Moderators
Kiến thức về trang thiết bị BB đến từ một chuyên gia của hãng Buterfly - tiếp

11WCBWP.jpg


Phần 1: Phông / Cốt - "linh hồn" của cây vợt
(5/2003)


Cho phép bắt đầu nói chuyện trước hết với một vấn đề chủ yếu, phông vợt. Ông không xem nó như là điểm rất cốt yếu trong khi lựa chọn một cây vợt tốt nhất?

Thực sự - Phông là linh hồn của cây vợt. Tất nhiên việc lựa chọn các mặt vợt phù hợp cũng rất quan trọng và chương trình về các loại mặt vợt của chúng tôi sẽ cung cấp một loạt các giải pháp đa dạng để tối ưu hóa những sở thích cá nhân. Các cầu thủ vẫn cần đặt sự tập trung của mình vào việc lựa chọn một chiếc phông vợt tốt nhất cho mình.

Điều này nghe có vẻ đơn giản, nhưng trong thực tế các cầu thủ phải đối mặt với nhiều vấn đề. Xem xét hàng loạt các phông vợt khác nhau có sẵn trên thị trường không chỉ được sản xuất bởi hãng Butterfly, mỗi cầu thủ gặp rất nhiều khó khăn để quyết định. không thể kiểm tra tất cả các loại phông mang tính cá nhân và càng nhiều rối rắm hơn khi muốn có 1 lựa chọn hoàn hảo. Vậy, tùy chọn nào mà người chơi có khi lựa chọn phông vợt?

Đó là một câu hỏi khó và không thể được trả lời chung. Để tư vấn cho một cầu thủ một cách hoàn hảo tôi phải biết anh ta và xem anh ta chơi bóng. Đối với tôi, quyết định là ở hai câu hỏi. Đầu tiên là vấn đề khoảng cách đến bàn: anh ta chơi gần bàn hay xa bàn? Câu hỏi thứ hai liên quan đến sức mạnh của các cú đánh tấn công của anh ta. Ví dụ cầu thủ đó thích chơi ở một cự ly có thể thay đổi độ xoáy và nhiều biến hóa về tốc độ và xoáy với lực nhỏ? Hay anh ta có xu hướng chơi gần bàn, chơi theo lối công tkích và sử dụng các cú đánh xoáy, nhanh với rất nhiều sức mạnh? Hay anh ta thậm chí chơi theo kiểu tấn công không thương tiếc với lực tối đa trong các cú đánh của mình? Tất cả những thông tin này rất cần thiết để đưa ra một khuyến nghị hoàn hảo cho người chơi. Đây là lý do tại sao huấn luyện viên lại đóng một vai trò quan trọng trong việc lựa chọn các vật liệu.

Nhiều khi các cầu thủ không có huấn luyện viên, những người có thể đưa ra những tư vấn tốt về vật liệu. Họ có thể tìm sự giúp đỡ ở nơi nào khác?

Liên quan đến các loại phông vợt của mình, hãng Butterfly đã phát triển một hệ thống phân loại với bảy cấp: DEF, ALL-, ALL, ALL+, OFF-, OFF, OFF+. Nhờ đó, người chơi có một hướng dẫn ban đầu, phông nào phù hợp với phong cách chơi bóng của anh ta. Tiêu chí thứ hai là trọng lượng. Trong những năm gần đây đã có một xu hướng liên tục là thích phông nhẹ hơn. Điều này chủ yếu là do thực tế, các mặt mút dày hơn và nặng hơn đã được sử dụng trong lối chơi tấn công. Và keo tốc độ cũng đã làm tăng trọng lượng của vợt. Hiện nay trung bình một phông nặng 85 gram. 2 gram nặng hơn hay nhẹ hơn là có thể nhận biết sự khác biệt. Một cây vợt nặng hơn hoàn toàn có thể tạo ra tốc độ bóng cao hơn. Nhưng - và điều này thường bị bỏ qua – một cây vợt nặng hơn sẽ làm chậm hơn các phản ứng của người chơi trong các chuyển động. Và tốc độ tối đa của vợt và vì thề gia tốc của vợt sẽ chậm. Đây không phải là vấn đề đối với các cầu thủ hàng đầu được đào tạo một cách căn bản về hệ thống cơ bắp của họ, mà là đối với những người chơi bóng ở trình độ trung bình và thấp hơn không có kỹ thuật hoàn hảo thì một cây vợt nặng hơn có thể là một bất lợi. Một tiêu chí thứ ba không được đánh giá thấp là câu hỏi: phông vợt là mềm và bám hay cứng?

Ông vừa nói phông "bám"? Không phải độ bám là một đặc trưng chỉ cho các loại mặt vợt?

Vâng, vâng, tôi nói phông "bám". Bằng cách này, tôi muốn nói đến các loại gỗ xây dựng mềm so với các loại cứng hơn. Chúng có thể dễ dàng được phân biệt bởi âm thanh. Giống như khi gõ cửa người ta có thể gõ vào phần trung tâm của phông với ngón trỏ và qua đó tạo ra một âm thanh nhất định. Những phông bám sẽ có âm thanh trầm, đục, những phông cứng có âm thanh thanh, nhẹ hơn. Phông cứng sẽ nhanh hơn và trực tiếp hơn, phông mềm có xu hướng chậm hơn và xoáy hơn. Chúng tôi có nhiều loại phông trong chương trình của mình mà tất cả đều thuộc loại OFF (tấn công – ND) nhưng khác nhau về độ bám và độ cứng.

Hãy quay trở lại với hai tiêu chí "khoảng cách" và "lực" được đề cập ngay từ đầu. Những phông nào của chương trình của Butterfly ông có thể khuyên dùng cho người chơi xa và gần bàn, loại nào dùng cho người chơi với nhiều lực hoặc ít lực?

Thật khó để đưa ra một câu trả lời đơn giản, nhưng nói chung là các loại phông tấn công cổ điển 5 lớp của chúng tôi – như Petr KOPBEL OFF- là ví dụ - là loại phông tấn công và lại bám, do đó thích hợp để chơi xa bàn và với biến hóa xoáy và cần nhiều cảm giác. Đồng thời, các loại phông carbon như PRIMORAC CARBON OFF+, GERGELY CARBON OFF+, hoặc SCHLAGER CARBON OFF+ là rất cứng và tiếp xúc trực tiếp với bóng. Không phải ai cũng thích cái cảm giác với phông carbon này. Một số người “nguyền rủa” nó. Một cách riêng biệt là những sản phẩm cứng này có thể được đề nghị cho lối đánh đôi công gần bàn. Những người thích phông mềm hơn – và vì thế chậm hơn - có thể bù đắp cho sự tốc độ bằng cách sử dụng mặt mút dày hơn với keo tốc độ.

Ông đề cập đến cảm giác Carbon. Một phông đặc biệt trong chương trình của Butterfly là Timo Boll SPIRIT OFF. Nó được kết hợp các vật liệu Carbon và Arylate. Những đặc tính đặc biệt mà phông này có là gì?

Phông Timo Boll SPIRIT OFF đại biểu cho hạng "trung lưu" trong phân loại các phông tấn công. Carbon cung cấp độ cứng cực đại. Arylate với chỉ 50% lượng Carbon sẽ mềm hơn. So với series phông Carbon OFF + thì loạt phông này là một ý tưởng chậm hơn, do đó có cảm giác tốt hơn trong khi việc thiếu lực tại điểm tiếp xúc với quả bóng được giảm tối thiểu. Và nó là một phông tuyệt vời cho ai sử dụng keo tốc độ. Cuối cùng đừng quên rằng phông ổn định hơn mười lần các loại sản phẩm thông thướng. Nhìn chung đây là một phông tấn công rất thú vị cho lối đánh hiện đại dựa trên cơ sở tạo xoáy - và nếu gắn bó với phông này lâu dài. Vì thế chắc chắn đây là một phông vợt được nhiều người mong đợi.

(Hết phần 1 - Còn tiếp)
 
Last edited:

NTBB

Super Moderators
Kiến thức về trang thiết bị BB đến từ một chuyên gia của hãng Buterfly - tiếp

11WCBWP.jpg


Phần 2: Vật liệu của nhà vô địch thế giới
(7/2003)


Taisei Imamura chăm sóc các hợp đồng giữa Butterfly và khách hàng trên toàn thế giới và làm việc rất tích cực trong việc phát triển sản phẩm của hãng. Với các cầu thủ, ông được coi là một trong những chuyên gia tốt nhất và giàu kinh nghiệm về nguyên vật liệu. "Werner Schlager vô địch thế giới chơi với vợt gì?" là một trong những câu hỏi liên tục được nghe thấy và do đó Taisei Imamura sẽ cung cấp các thông tin về vật liệu của nhà vô địch.

Nhiều người muốn biết nhà vô địch thế giới Werner Schlager đã sử dụng vật liệu gì. Ông có thể tiết lộ bí mật?

Tất nhiên. Vợt của anh ta là của riêng anh ta, Carbon Schlager OFF+ cán đuôi cá. Cả hai mặt anh ấy đều chơi mút Bryce với độ dày 2,1 mm, bên trái tay có màu đen, bên thuận tay màu đỏ.

Và ông có thể cho chúng tôi biết keo Butterfly nào mà anh ta sử dụng làm keo tăng lực cho các mặt mút của mình?

Với Fair-Chack.

Bryce là một mặt mút HIGH TENSION có phù hợp với keo tốc độ?

Tất nhiên, Bryce có thể được dán keo (tăng lực – ND) một cách hoàn hảo. Sau khi dán nó đạt đến tốc độ tối đa của nó và tạo xoáy tốt. Bạn có thể hình dung rằng một mặt mút đã được tích hợp sẵn hiệu ứng tăng lực - và không có gì khác chính là bởi công nghệ HIGH TENSION - sẽ trở nên vô cùng nhanh và xoáy khi bổ xung thêm keo tăng lực.

Trong cùng thời gian đó Bryce được sử dụng bởi nhiều ngôi sao của Butterfly như Kalinikos Kreanga hoặc Tamara Boros, cả hai đều đứng hạng 3 giải Cúp thế giới. Nhà vô địch Olympic năm 2000 và hạng 3 Cúp thế giới Kong Linghui cũng như Trinko Keen chơi Bryce bên trái tay của họ, Michael Maze chơi bên thuận tay. Và Chaing Peng-Lung và Ryu Seung Min cũng như các cầu thủ tuyển quốc gia Đức Bastian Steger và Lars Hielscher đều tin tưởng vào nó. Bryce gia nhập thị trường vào năm 1997, tại sao nó phát triển lên một đỉnh cao về mút trong một khoảng thời gian ngắn như vậy?

Từ cuối những năm 90 – sự liên kết giữa các công ty khác nhau đã mang đến một thế hệ mới các loại mặt mút trên thị trường, các loại mút đã được tích hợp sẵn keo tăng lực hoặc hiệu ứng “phóng”. Chúng tôi cũng đã làm việc về vấn đề này một cách tích cực. Với Bryce và Catapult chúng tôi sau đó cho ra đời hai mặt mút có hiệu ứng này - chúng tôi gọi nó là HIGH-TENSION. Catapult chậm hơn một chút, mềm hơn, phiên bản Bryce cứng hơn, nhanh hơn. Bryce được nhiều fan hâm mộ trong số các cầu thủ hàng đầu. Nó đã có thể thuyết phục được những cầu thủ hàng đầu khó tính và điều này khiến chúng ta có thể tự hào. Và: Bryce còn được chơi bởi nhiều cầu thủ đẳng cấp thế giới ở châu Á và châu Âu không ký hợp đồng với chúng tôi.

Những gì mà một cầu thủ "bình thường" chờ đợi khi thay đổi từ SRIVER 2,1 mm sang Bryce 2,1 mm?

Tốc độ rõ ràng là cao hơn! Người ta nhận định rằng các cú giật bằng mặt Bryce có đường cong bóng bay thấp hơn. Biến đổi trong tốc độ và xoáy với SRIVER có thể như với Bryce, nhưng về mặt kỹ thuật thì khó hơn nhiều. Các chuyển động giật bóng của cánh tay luôn luôn hướng về phía trước. Sau đó nó sẽ phát huy tốc độ của nó. Những ngưới thích bắt đầu với cú giật nhẹ nhàng hơn, chậm hơn hoặc chơi cú chặn xoáy như Timo Boll thì nên găn bó với SRIVER. Cũng thế với những người thích chặn bóng. Bryce là rất trực tiếp và có tính công kích và rất tốt cho việc đè ép bóng hoặc đẩy bóng. Nó rất thú vị cho người chơi muốn tạo áp lực gần bàn.

Nhưng Werner Schlager và Kalinikos Kreanga thực sự không phải là những người chơi bóng gần bàn, thay vì thế họ lại có xu hướng tạo áp lực tuyệt vời từ khoảng cách trung bình?

Điều này là đúng. Nhưng nhìn kỹ bạn sẽ thấy rằng cú giật của họ luôn luôn sử dụng tốc độ cao - không nhiều xóay và biến hóa như Timo Boll thường làm.

Những mặt mút đã được tích hợp keo dán luôn tự quảng cáo với "âm thanh" của mình: "Đó là âm thanh thể hiện hiệu ứng keo dán ...”. Bryce không có âm thanh này khi không dán và ít khi có dán keo tăng lực. Vậy, mặt mút HIGH-TENSION sẽ không có?

Vẫn còn, vẫn còn, đây là việc rất khó. Âm thanh keo dán được gây ra bởi miếng lót mềm và lớp bề mặt cao su. Nhiều cầu thủ hàng đầu chơi tấn công không thích các mút mềm. Đối với tốc độ cao khi chơi ở trình độ đỉnh cao, bạn cần độ cứng cao hơn. Vì vậy chúng tôi lựa chọn bố trí HIGH TENSION cứng cho Bryce đáp ứng các yêu cầu của thể thao đỉnh cao. Và hôm nay sau gần sáu năm, chúng tôi biết đó là sự lựa chọn đúng cho không chỉ đối với các cầu thủ hàng đầu đến với Bryce. Và những người không thích độ cứng này sẽ có hai thay thế HIGH-TENSION mềm hơn với mút Catapult và Cermet. Trong khi đó số liệu bán hàng của chúng tôi cho thấy chương trình HIGH-TENSION với Bryce như là một sản phẩm dẫn đầu đã được khẳng định ngay sau thế hệ SRIVER thành công và do đó đã tìm thấy nhiều bạn bè trong thị phần nghiệp dư.

Như vậy, cuối cùng độ cứng đã quyết định tốc độ?

Vâng, trong các phòng thí nghiệm của mình, chúng tôi đã mở rộng các quá trình đo đạc, mà với chúng, chúng tôi có thể xác định độ cứng của miếng lót và phần mặt trên cùng một cách chính xác. Sự kết hợp giữa các lớp bề mặt cứng hơn với lớp lót mềm hơn và ngược lại đã tạo ra sự đa dạng của các loại mặt vợt được cung cấp.

Và độ cứng cón có những tác động khác bên cạnh một tốc độ cao hơn đáng kể?

Chắc chắn là như thế, các mặt vợt cứng hơn rất nhạy cảm với xoáy. Các mặt mềm hơn sẽ hấp thụ nhiều chuyển động quay khi tiếp xúc với bóng đến. Các cú đánh sai có nhiều lý giải dễ dàng. Lợi thế tốc độ cao sẽ đem đến sự bất lợi dễ bị tổn thương hơn bởi xoáy. Mỗi người chơi phải tự mình quyết định những gì là quan trọng hơn đối với bản thân. Rõ ràng là: Bryce là không thích hợp cho những người mới bắt đầu. Là một trong những mặt mút nhanh nhất trên thế giới, nó đòi hỏi sự tập luyện thường xuyên và một cảm giác bóng tốt, vì điều đó cho phép ít sai sót. Và một lần nữa cần chỉ ra: Ai chơi Bryce thì cần tìm hiểu lối chơi tấn công mạnh mẽ gần bàn! Và một pha nhất định nào đó thích ứng cần thiết một cú giật có đường bay khác lạ, thấp hơn. Vì vậy, đừng bỏ cuộc sau lần thử đầu tiên nếu mọi thứ không diễn ra tốt đẹp.

Hãy nói về phông vợt của Werner Schlager, cây Werner Schlager Carbon OFF +. Nó có thực sự là phông Butterfly nhanh nhất như đã được đề cập trong các quảng cáo?

Không nghi ngờ gì. Lớp gỗ ngoài cùng của Schlager OFF+ là loại gỗ cứng. Lớp này được làm từ loại gỗ Cyprus ở Bắc Mỹ, một loại thông, nó nặng hơn một chút so với gỗ Hinoki của Nhật Bản. So với Carbon Primorac OFF+ sử dụng gỗ Hinoki làm lớp ngoài cùng, thì cây Schlager Carbon OFF+ được nhìn nhận là nhanh hơn và nặng hơn một chút. Đây là cây vợt tuyệt vời dành cho lối đánh tấn công nhiều xoáy tích cực ở gần bàn và tìm kiếm những cú giật nhanh và đôi công xoáy, kiểu như Werner Schlager, Kalinikos Kreanga hoặc Tamara Boros.

Và phông và các mút phù hợp hoặc là một "combo Schlager" đặc biệt?

Không, tôi tin rằng các loại mặt Bryce và các loại phông với công nghệ Carbon của chúng tôi là sự phối hợp hoàn hảo.

(Hết phần 2 - Còn tiếp)
 
Last edited:

NTBB

Super Moderators
Kiến thức về trang thiết bị BB đến từ một chuyên gia của hãng Buterfly - tiếp

11WCBWP.jpg


Phần 3 : High Tension – Sức mạnh cho mọi sở thích
(11/2003)


Thưa ông Imamura, năm 1997 Butterfly cho lưu hành mặt BRYCE như là mặt vợt đầu tiên của thế hệ mới HIGH TENSION. Khi ấy chương trình bao gồm 3 loại mút được tích hợp hiệu ứng căng sẵn: Bryce FX, CERMET và CATAPULT. Sự khác biệt cụ thể giữa các mắt mút nàu là gì?

BRYCE và BRYCE FX có một bề mặt giống hệt nhau, trong khi CERMET và CATAPULT mỗi loại có hỗn hợp của riêng mình. Các lớp bề mặt khác nhau trước hết về độ cứng, thứ hai là ở độ dày của các chân gai bên trong. Điều này dẫn đến các đặc tính khác nhau.

Loại nào trong số chúng có bề mặt cứng nhất?

Chắc chắn là BRYCE. Với mút này, bạn có thể chơi với tốc độ khủng khiếp ngay cả khi ở khoảng cách xa bàn; Không nghi ngờ gì nó là mặt mút HIGH TENSION nhanh nhất. Ở gần bàn, bạn sẽ nhận ra sự khác biệt lớn với các loại mút HIGH TENSION khác.

Và làm thế nào để BRYCE và BRYCE FX khác nhau?

BRYCE FX có miếng lót mềm hơn so với BRYCE. Điều này làm cho nó chậm hơn 1 chút, nhưng do vậy mà tác dụng của keo tốc độ tích hợp sẵn sẽ có hiệu quả hơn.

Điều đó có nghĩa là xoáy nhiều hơn?

Không, bạn không thể nói như thế. Nếu bạn đang ở gần bàn hơn thì sẽ dễ dàng hơn để chơi với BRYCE FX. Keo tốc độ có tác dụng làm cho bạn – nói theo nghĩa đen - "mù" đối với xoáy của bóng đến, do đó ít bị tổn thương. Tất nhiên điều này dẫn đến ít sai sót.

Vậy thì tại sao rất nhiều các ngôi sao hàng đầu như nhà vô địch thế giới Werner Schlager, vô địch Olympic Kong Linghui, thứ ba WCC Kalinikos Kreanga hoặc nữ VĐV hay nhất châu Âu, Tamara Boros lại sử dụng mặt BRYCE?

Bởi vì họ thường xuyên phải chơi ở ngoài cự ly trung bình, sẽ được hỗ trợ bởi BRYCE cứng hơn tạo ra tốc độ cao ngay cả ở cự ly đó. Họ cần độ cứng cho áp lực của họ, trong lớp bề mặt cũng như trong lớp lót. Hơn nữa họ có một tốc độ rất lớn trong các cú đánh của mình, cần phải có được tốc độ nảy ra của mặt mút. Trong bối cảnh như thế, tôi muốn đề cập đến một sự so sánh. Nói chung người ta nói rằng mặt mút với miếng lót dày hơn là nhanh hơn so với một mặt mút có miếng lót mỏng hơn. Điều này không thể nói vì nó phụ thuộc vào kỹ thuật và tốc độ của các cú đánh của người đang sử dụng mặt mút. Những vận động viên trẻ chơi BRYCE nhưng chưa có tốc độ cần thiết trong các cú đánh của họ thì vẫn có thể có khả năng chơi nhanh hơn khi sử dụng SRIVER FX.

Hãy nói về CERMET và CATAPULT. Chúng có thể được so sánh với BRYCE và BRYCE FX như thế nào?

Bề mặt mút của CERMET mềm hơn so với BRYCE và BRYCE FX. Do đó tốc độ ban đầu là thấp hơn một chút, vì bóng đi sâu hơn vào mặt mút và lưu lại ở đó lâu hơn khi tiếp xúc. CATAPULT thậm chí còn mềm hơn, lớp lót của nó cũng vậy. Do mức độ cao hơn của độ mềm này mà hiệu quả của keo tốc độ tích hợp sẵn với âm thanh đặc biệt của nó là rõ rệt hơn ở CERMET và CATAPULT.

So sánh tất cả bốn loại mút thì có một sự xếp hạng theo độ cứng của chúng từ BRYCE qua BRYCE FX, CERMET đến CATAPULT. BRYCE cứng nhất, CATAPULT mềm nhất. Ông sẽ khuyên ai nên chơi loại mặt HIGH TENSION nào?

Ý kiến của các cầu thủ hàng đầu của chúng ta là tất cả họ đều sử dụng Bryce và Bryce FX bên mặt thuận tay của họ. Khác nhau là ở bên mặt trái tay. Những cú đánh đặc biệt gần bàn là ngắn hơn và do đó một số thích CERMET và CATAPULT, vì bạn có thể thi triển áp lực rất tốt. Đối với những cầu thủ đẳng cấp thấp hoặc trung bình, tôi thường khuyên: người chơi gần bàn nên sử dụng CATAPULT, CERMET, hoặc BRYCE, ai hoạt động khoảng cách xa và muốn tạo áp lực một cách thận trọng thì sử dụng BRYCE.

Nói chung người ta nói rằng mặt mút được dán keo tăng lực hoặc những loại mặt mút đã được tích hợp sẵn keo tốc độ sẽ có độ kiểm soát ít hơn. Những gì cần nói về các loại mút HIGH TENSION trong cú giao bóng hoặc đẩy nhẹ bóng (gò nhẹ - ND)?

Với cú giao bóng thì độ cứng sẽ quyết định về lượng xoáy mà tôi có thể tạo ra cho quả bóng. Mềm hơn thì sẽ tạo ra nhiều xoáy hơn. Vấn đề là, thật khó để chơi không xoáy với các loại mặt mút rất mềm – chẳng hạn TACKINESS C là loại mặt mút mềm nhất của chúng tôi. Mà những biến hóa của bóng không xoáy của chúng ta là rất cần thiết trong khi thực hiện những cú giao bóng tiên tiến. Với BRYCE "cứng" sẽ dễ dàng hơn để chơi biến hóa như vậy. Khi đẩy bóng thì CATAPULT và BRYCE FX sẽ cho độ kiểm soát nhiều hơn BYRCE. Đặc biệt là khi bắt bóng ngắn thì BRYCE có lợi thế là thời gian tiếp xúc ngắn, khiến cho nó dễ dàng hơn để đánh ngắn quả bóng.

Có thể nói rằng CERMET và CATAPULT trên tất cả là dễ dàng hơn để chơi theo phong cách thiên về kỹ thuật?

Vâng, tôi nghĩ như vậy. Một trong những lý do là quỹ đạo thấp của bóng khi thực hiện cú giật với BRYCE. Tất nhiên bóng do đó sẽ nhanh hơn. Nhưng những người đã tiếp xức với BRYCE nhiều sẽ sớm đánh giá cao đó là lợi thế và sẽ được kích thích.

Với BYRCE, nó được đánh giá một cách rõ ràng rằng nó hoàn toàn thích hợp với keo tốc độ. Không phải đó là một sự mâu thuẫn sao?

Không phải tất cả. Trước hết tác dụng của keo tốc độ đã được tích hợp trong mút là không hoàn toàn giống với keo dán tốc độ thực sự. Tất cả những người sử dụng keo tốc độ đều biết điều này. Ngoài ra các mặt mút HIGH TENSION của chúng tôi có độ cứng khác nhau. BRYCE là cứng nhất, do đó, có ít sức căng so với CATAPULT, là loại mút mềm nhất. Sức căng nhiều được đưa vào loại mặt mút mềm hơn. Do đó bạn sẽ thấy có nhiều tác dụng hơn khi dán tốc độ BRYCE hơn là với CATAPULT hoặc CERMET. Mỗi người chơi có quyết định của riêng mình. BRYCE đã chứng tỏ nó xứng đáng là một mặt mút hàng đầu. Bryce FX, CATAPULT và CERMET cũng đứng vào hàng đầu. Không chỉ là ở hàng đầu, mà trên thị trường cũng rất tốt. Doanh số bán hàng của chúng tôi xác nhận rằng chúng tôi đã đi đúng đường với các loại mút HIGH TENSION của mình.

Như vậy, chương trình HIGH TENSION là một thành công. Những phát triển trong tương lai sẽ mang lại là gì?

Trò chơi Bóng bàn không chỉ có giật và tốc độ. Vì vậy, việc cải tiến các loại mặt mút của chúng tôi sẽ tiếp tục xem xét đến tất cả mọi nhu cầu của trò chơi. Và có nhiều ý tưởng và sáng kiến đang hình thành.

(Hết phần 3 - Còn tiếp)
 
Last edited:

NTBB

Super Moderators
Kiến thức về trang thiết bị BB đến từ một chuyên gia của hãng Buterfly - tiếp

11WCBWP.jpg


Phần 4: Sriver - không thể tin được, nhưng là sự thật
(1/2004)



Thưa ông Imamura, Sriver đã là một trong những mặt mút thành công nhất trên toàn thế giới trong hơn 30 năm, nếu không muốn nói là thành công nhất. Thực sự khó tin khi xem xét những thay đổi trò chơi Bóng bàn đã trải qua không chỉ về mặt kỹ thuật.

Khi chúng tôi đưa ra Sriver nhiều người cho rằng nó quá nhanh và khó kiểm soát. Sự khác biệt thực sự giữa SRIVER với loại mút trước đó, TEMPEST là về tốc độ khủng khiếp của nó. Bước đột phá này được tạo ra bởi các cầu thủ hợp đồng của chúng tôi, Tibor Klampar, Istvan Jonyer và Gabor Gergely. Họ đã cho thấy những gì có thể thực hiện với SRIVER.

Đặc biệt là 3 cựu ngôi sao hàng đầu đã được cải thiện lối chơi giật bóng thuận tay cũng như trái tay rất nhiều.

Đúng là như vậy. Nhưng đừng quên: cả Jacques secretin hoặc Dragutin Surbek và nhiều VĐV khác nữa. Sriver đơn giản là lý tưởng cho lối chơi tấn công mạnh mẽ và biến hóa với xoáy - và ngày nay vẫn vậy. Hãy nhìn Timo Boll. Nhưng có một điểm khác: bộ 3 hàng đầu Hungary bắt đầu dùng keo tốc độ với SRIVER trong năm 1978. Và năm 1979 họ đã trở thành vô địch thế giới, sau khi họ đã đánh bại Trung Quốc trong vòng bảng cũng như trong trận chung kết. Với sự kiện này, ngày "đám cưới" của SRIVER bắt đầu và kéo dài cho đến hôm nay.

SRIVER đặc biệt thích hợp đối với keo tốc độ?

Chắc chắn. Sau giải VĐTG năm 1979, việc sử dụng keo tốc độ liên tục phát triển. Đầu tiên trong đội ngữ VĐV hàng đầu, sau thì ở trình độ nghiệp dư cũng sử dụng nhiều. Nhiều loại mút đã gặp vấn đề khi dùng keo tốc độ, xuất hiện những bong bóng hoặc bị rạn nứt. Với SRIVER nó vẫn sử dụng tốt. Đảm bảo cho điều này là lớp lót, mà là duy nhất và chỉ được sản xuất cho SRIVER. Nhiều người đã cố gắng sao chép miếng lót này, nhưng không ai thành công cho đến nay.

Miếng lót của SRIVER được cho là khá cứng. Đâu là sự khác biệt so với SRIVER EL và SRIVER FX?

Lớp mặt của tất cả ba phiên bản SRIVER đều giống nhau. Sự khác biệt nằm trong miếng lót. Phiên bản FX có miếng lót mềm nhất, SRIVER làcứng nhất và SRIVER EL là ở mức trung bình. Với những sản phẩm này, chúng tôi muốn cung cấp cho người chơi sự lựa chọn để điều chỉnh trang thiết bị tốt hơn và phù hợp cá nhân hơn. Những người thích cảm giác nhiều thì hãy chọn FX, những người cần độ cứng trực tiếp hãy chọn SRIVER và những ai muốn trung dung thì hãy chơi EL.

Có nhiều người hỏi, độ dày “Max” nghĩa là như thế nào?

Khi thêm độ dày của lớp mặt mút và lớp lót để đạt được 3,8 mm. Điều này có nghĩa là lớp lót dày khoảng 2,2 đến 2,3 mm.

Bề mặt SRICE được cho là không bám so với các loại mút "dính" hơn của Trung Quốc.

Điều đó không đúng. Độ bám của mặt mút không chỉ được xác định bởi lơp bề mặt, mà còn bởi sự kết hợp của lớp mặt và cao su. Và bạn phải luôn xác định độ bám của một mặt mút luôn luôn trong mối liên quan với kỹ thuật đánh bóng. Ở một số kỹ thuật thì chủ yếu là lớp bề mặt tác động đến bóng, ví dụ như cú giao bóng bằng cách cắt trên bàn - và lúc này các loại mút dính của Trung Quốc sẽ tạo ra xoáy nhiều hơn. Khi chơi cú giật, đặc biệt là chơi đối xoáy, bóng lún sâu vào mút thì SRIVER sẽ cho nhiều xoáy hơn. Timo Boll và Petr Korbel, cả hai được biết đến với việc chơi xoáy cực kỳ hiệu quả của họ, sử dụng SRIVER bên cả thuận tay và trái tay.

Nhiều người cho rằng SRIVER là loại mút rất bền, có thể được chơi trong một thời gian dài. Xem xét giá cả hiện nay thì đó là một yếu tố quan trọng cho phân khúcchơi bóng nghiệp dư. Điều này là sự thực?

Hiện nay chắc chắn là thế. Khởi đầu chúng tôi cũng có những vấn đề của mình, nhưng điều này lại là một lợi thế, khi mặt mút được sản xuất trong một thời gian dài như vậy. Tất nhiên chúng tôi đã không ngừng cải tiến nó. Đặc biệt là bề mặt đã trở nên bám và đàn hồi hơn và sự lao hóa diễn ra chậm hơn. Và chúng tôi cũng đã thay đổi các gai bên trong. Và Sriver không cần một tấm nhựa bảo vệ để giữ độ bám của nó. Vì vậy, tôi tin rằng các mút của dòng SRIVER là có hoàn hảo về kỹ thuật và rất bền.

SRIVER là một loại mút cho bất cứ ai? Người ta có thể thấy rằng nó được sử dụng ở tất cả các cấp độ kỹ năng và trong tất cả các nhóm tuổi.

Tất nhiên SRIVER là mặt mút cho bất cứ ai. Trong khi đó với SRIVER, SRIVER EL và SRIVER FX là ba kiểu khác nhau trên thị trường, tất cả có các độ dày từ 1,3 mm đến tối đa – đó là một lựa chọn rộng lớn. Và tôi nghĩ rằng đó là một cám dỗ cho các cầu thủ trẻ để chơi bóng với loại mút của thần tượng của bạn. Và rằng Timo Boll sử dụng SRIVER không phải là một lời quảng cáo thương mại mà là một sự thật hoàn toàn.

Đang có những kế hoạch mới cho chương trình SRIVER?

Vâng, mùa hè này, SRIVER G2 mới sẽ được tung ra. G2 là viết tắt của Thế hệ 2, đó là SRIVER của thế hệ tiếp theo.

SRIVER với thế hệ HIGH TENSION mới, cũng được tích hợp sẵn high tension và hiệu quả của keo tăng lực?

Có thể, nhưng tôi không muốn đi sâu vào chi tiết tại thời điểm này (tháng 1/2004 – ND).

(Hết phần 4 - Còn tiếp)
 
Last edited:

cttuan

Moderator
Chú Út, hình như mấy bài này cách đây cũng khoảng 7 8 năm rồi phải không? Ông chuyên gia toàn nó về keo tăng lực, Sriver, ALC... không thấy đề cập ZLC, Tenergy..
 

NTBB

Super Moderators
Chú Út, hình như mấy bài này cách đây cũng khoảng 7 8 năm rồi phải không? Ông chuyên gia toàn nó về keo tăng lực, Sriver, ALC... không thấy đề cập ZLC, Tenergy..

Đúng thế ! Rồi sẽ đến ZLC và Tenergy, hihi ! Cứ từ từ, phải có trình tự chứ. Chẳng qua là chú muốn ACE mình tiếp nhận các thông tin và kiến thức về "vũ khí" theo dòng "lịch sử". Một mặt hiện nay những Bryce, Sriver, MarkV ...trên thị trường vẫn còn lưu hành và nhiều người chơi bóng vẫn chọn những "vũ khí" của thế kỷ trước để chiến đấu.
 

NTBB

Super Moderators
Kiến thức về trang thiết bị BB đến từ một chuyên gia của hãng Buterfly - tiếp

11WCBWP.jpg


Phần 5: SRIVER G2 mới
(2/2004)


Mặt mút SRIVER điển hình, kết hợp độ nhanh, uy lực và xoáy – hãy cảm nhận

Đầu tháng Hai (năm 2004 – ND) Butterfly giới thiệu SRIVER mới G2 tại ISPO tại Munich. Với mặt G2 này, gia đình huyền thoại SRIVER – vốn đã thành công trong hơn 30 năm qua, nay thu nạp thêm một thành viên mới. Không phải là thành viên bất kỳ, mà là một thành viên đặc biệt - một trong những loại mút thế hệ thứ hai. Ông Imamura, có gì mới ở SRIVER G2?

Điều này khá đơn giản. Chúng tôi đã sản xuất một SRIVER với công nghệ HIGH TENSION giống như Bryce đã có. Chúng tôi muốn biết, loại mút thành công nhất của chúng tôi trong nhiều thập kỷ sẽ phản ứng với HIGH TESION như thế nào.

Rõ ràng là tốt, hay là không với SRIVER G2.

Ý tưởng của chúng tôi là thực sự tốt. Chúng tôi đã bắt đầu với phiên bản SRIVER L, loại SRIVER cứng nhất. Bề mặt gần như không thay đổi, cũng như lớp lót.

Nhưng sau đó đã có sự khác biệt giữa SRIVER G2 và SRIVER cổ điển?

Nó nhanh hơn rõ ràng. Ngoài việc công nghệ HIGH TESION cung cấp thêm độ đàn hồi cho mút, mà lại còn tạo cho SRIVER G2 xoáy hơn một cách đáng kể. Một mặt mút tấn công cho lối chơi toàn diện cực kỳ uy lực.

Bryce đã trở thành sản phẩm hàng đầu của Butterfly trong những năm qua. Gần đây Michael Maze giành chiến thắng Giải 12 cây vợt hàng đầu Châu Âu ở Frankfurt với Bryce bên phía thuận tay. Sự khác biệt giữa Bryce và SRIVER mới G2 là gì?

Không có nhiều sự khác biệt về tốc độ. Có nhiều người hỏi về đường cong của các quả giật. Trong khi quả bóng được chơi bởi mặt BRYCE bay thấp hơn và thẳng hơn, chúng tôi đã tập trung vào việc giữ quỹ đạo cong nhiều của các cú giật mà SRIVER đã được biết đến. Timo Boll, đang chơi SRIVER L, cần những quả bóng như thế, vì anh ta liên tục thay đổi quả giật của mình. Đối với điều này thì SRIVER G2 mới đã được tích hợp. Những người theo đuổi lối chơi cực nhanh và trực tiếp thì sẽ thích mặt BRYCE hơn.

SRIVER vẫn là sản phẩm hàng đầu bán chạy nhất trong bảng xếp hạng của Butterfly. Những gì có thể mang lại cho một cầu thủ khi thay đổi với SRIVER G2, nếu anh ta đã tin tưởng vào SRIVER cổ điển - L, FX hoặc EL - trong nhiều năm?

Vâng, bằng cách phát triển SRIVER G2, chúng tôi không muốn phát minh ra một loại mặt mút mới. Những người đã gắn bó với SRIVER nhiều năm giờ vẫn có thể tìm được các đặc tính của SRIVER đặc trưng khi chuyển sang SRIVER G2. Tất nhiên chúng tôi cũng đã thử nghiệm SRIVER G2 với nhiều cầu thủ hàng đầu của chúng tôi. Nhưng chúng tôi đã không nói với họ rằng đó là mặt SRIVER mới. Và tất cả họ đã có ý kiến, rằng đó là SRIVER, nhưng rất bám, xoáy và nhanh. Điều này là sự khẳng định để chúng tôi tiếp tục.

Như vậy, cảm giác SRIVER đặc trưng vẫn được duy trì?

Tất nhiên! Trong phạm vi này chúng ta nên nói về một phiên bản SRIVER "Cập nhật". Sẽ không tạo nên bất kỳ ý nghĩa gì khi phát triển một mặt mút SRIVER mới mà không có gì liên quan đến “người tiền nhiệm” của nó. Nhưng như chúng ta đã thấy niềm vui của chúng tôi, các loại mút HIGH TENSION đã thành công như thế nào trong các giải đấu quốc tế cũng như trên thị trường. Vậy tại sao chúng ta không kết hợp SRIVER với HIGH TENSION? Tất nhiên điều này không phải là điều thú vị cho tất cả bạn bè của SRIVER – vì dòng SRIVER đã trở thành một chương trình đồng bộ - nhưng đối với những người có thiên hướng tấn công thì đây là một lựa chọn đúng.

SRIVER G2 sẽ được chào hàng với độ dày lớp lót bao nhiêu?

1,7; 1,9; 2,1 và Max.

Các loại mút của dòng SRIVER được biết là rất thích hợp với keo tốc độ. Ông có kinh nghiệm gì với SRIVER G2?

Các SRIVER G2 phản ứng với keo tốc độ cũng tích cực như các loại mút SRIVER L, EL và FX cổ điển. Các thông số xoáy và tốc độ đều có thể tăng đáng kể bởi keo tốc độ. Tình trạng cong vênh, rạn nứt hoặc bong bóng không thấy xuất hiện.

Ông đánh giá triển vọng thành công cho SRIVER G2 thế nào?

Chúng tôi rất lạc quan rằng SRIVER G2 sẽ đóng một vai trò quan trọng trong dòng mút SRIVER, đặc biệt là bởi nhiều khả năng một số cầu thủ hợp đồng sẽ chuyển sang sử dụng SRIVER G2.

(Hết phần 5 - Còn tiếp)
 
Last edited:

NTBB

Super Moderators
Kiến thức về trang thiết bị BB đến từ một chuyên gia của hãng Buterfly - tiếp

11WCBWP.jpg


Phần 6. Hệ thống TWIST, sợi thủy tinh, hay miếng tem nhãn – các loại vợt mới cung cấp rất nhiều sự cách tân
(4/2004)


Phan 6 Twist-1.jpg


Ông Imamura, trong mùa giải này (bài phỏng vấn này thực hiện tháng4/2004 – ND) Butterfly đưa ra các loại phông vợt của mình với một số vợt mới lạ hấp dẫn: đầu tiên là phông TWIST VSG, được trang bị một công nghệ mới, sau đó là vợt có sợi thủy tinh Kreanga Aeros OFF+, tiếp theo là vợt tấn công truyền thống Schlager INSPIRE OFF. Xin vui lòng cho độc giả của chúng ta biết, những gì mới lạ sẽ được cung cấp và cho đối tượng nào mà họ (Butterfly – ND) đang thực hiện.

Tất nhiên. Hãy bắt đầu với 4 mô đen VSG-Twist. Chúng là sự cải tiến một cách rõ rệt từ dòng VSG-21 được tích hợp sẵn trong 4 mô đen này. Chữ VSG là viết tắt của Vibration Shutout Grip (cán chống rung – ND). Khi chúng tôi giới thiệu sáng chế hệ thống cán vợt này 3 năm trước đây, nó là một bước tiến mới đối với chúng tôi, vì chúng tôi chưa bao giờ thử nghiệm với cán vợt đã sản xuất trước đó. Chúng tôi đã vui lòng với thực tế rằng thời gian ngắn sau đó rất nhiều cầu thủ hài lòng với hệ thống giảm rung của chúng tôi. Và một số cầu thủ hợp đồng của chúng tôi như Nikoleta Stefanova (ITA) đã tin cậy vợt này với cảm giác mới. Vì vậy chúng tôi đã tiếp tục công việc cường độ cao của chúng tôi trên dòng sản phẩm này và bây giờ có thể thực hiện các bước tiếp theo với loạt VSG-Twist.

Sự khác biệt giữa các loại vợt VSG-TWIST và sản phẩm tiền nhiệm của nó là gì?

Chúng tôi không chỉ gắn vào cán vợt hệ thống Twist mới, một phần chúng tôi đã đưa vào lớp gỗ ngoài mới cho vợt. Bốn phông TWIST hiện nay đã bao gồm tất cả các tốc độ: ALL + (Twist I), OFF-(Twist II), OFF (Twist III) và OFF + (Twist IV). Thời diểm này chúng tôi đã quyết định tăng cường loại phông 7 lớp TWIST III với Kevlar carbon và phông 5 lớp Twist IV với carbon. Ngày càng có nhiều cầu thủ trong dải tốc độ OFF- có xu hướng thiên về sử dụng các loại vợt công nghệ Carbon. Và kích thước của mặt vợt nhỏ hơn so với các mô đen khác của chúng tôi. Điều này làm cho các phông VSG-TWIST tương đối nhẹ.

Hệ thống TWIST có nghĩa là gì?

Rất đơn giản: TWIST có nghĩa là đổi chiều. Ý tưởng là, người chơi có thể điều chỉnh cán cầm theo nhu cầu của mình và có khả năng thay đổi nó một chút. Ở cuối vợt có thể tháo bỏ trục bánh răng bằng nhựa một cách dễ dàng. Bên dưới có một ốc vít gắn vào cán vợt. Nhờ đó cán vợt có thể được dịch chuyển theo hướng này hoặc hướng khác tùy theo từng người chơi để tìm ra độ nghiêng phù hợp của mình. Đặc biệt là những người chơi với lực mạnh hoặc cầm kiểu trái tay đánh giá cao chức năng điều chỉnh này. Đây là một chức năng bổ sung mà không cần phải bắt buộc sử dụng. Tất nhiên hệ thống để giảm rung động vẫn được giữ lại và sẽ cung cấp cảm giác VSG độc đáo cho các cầu thủ .

Quá nhiều đổi mới để kích thích người đọc. Hãy nói về các loại phông mới tiếp theo trong chương trình 2004/2005. Những gì đằng sau Aeros ở loại vợt mới Aeros Kreanga OFF+ ?

Chúng tôi đã đặt tên cho nó Aeros Kreanga, vì chúng tơi muốn nhấn mạnh vật liệu sợi thủy tinh. Sợi thủy tinh như đã biết đang được sử dụng rộng rãi, đặc biệt là trong chế tạo máy bay. Đối với chúng tôi đây là lần đầu tiên chúng tôi cung cấp loại vợt với một phần là sợi thủy tinh. Chúng tôi đã thực hiện việc nghiên cứu mở rộng và thử nghiệm, vì nó không chỉ đơn giản là đặt một lớp sợi thủy tinh ở giữa. Điều này thì quá đơn giản. Chính nó sẽ tạo ra sự cân bằng của cây vợt 7 lớp mức OFF+, cung cấp nhiều cảm giác mặc dù nó là loại vợt nảy. So với vật liệu carbon thì sợi thủy tinh nhẹ nhàng hơn. Chúng tôi đã thiết kế riêng loại vợt này cho Kalinikos Kreanga, vì nó thích hợp nhất cho những người chơi tấn công xoáy mạnh mẽ ở cả hai bên.

Cuối cùng chúng ta hãy nói về loại vợt mới SCHLAGER INSPIRE OFF. Cảm hứng Schlager – Điều đó có ý nghĩa gì?

Trong thực tế, loại vợt này được lấy cảm hứng từ “người tiền nhiệm” của nó, vợt POWERFEELING rất thành công, đã được đưa ra một vài năm trước đây. Với SCHLAGER INSPIRE OFF, chúng tôi muốn giới thiệu một sản phẩm song hành có cùng một cảm giác của cây vợt POWERFEELING cũ, nhưng thêm nhiều xung lực và tốc độ hơn. Các tính năng này được cung cấp bởi cấu trúc 7 lớp gỗ tạo độ chính xác cao nhất có thể, đó là sự độc đáo trong mức OFF. Dành cho tất cả người chơi, mà muốn tạo áp lực nhưng không thiếu cảm giác, sự biến hóa và sự thay đổi trong tốc độ.

Một lời về tên nhãn mới gắn trên cán, Mr.Imamura.

Chúng tôi đã quyết định sử dụng một phiên bản mới được làm bằng thép không gỉ. Nó không chỉ cho một cái nhìn khác, mà mối nguy miếng nhãn bằng nhựa bị lỏng và rơi ra đã được loại bỏ. Bây giờ các miếng nhãn giống như một cái vòng kẹp vào đuôi cán vợt và nhiều cầu thủ thử nghiệm cho rằng rất dễ chịu. Tôi chỉ có thể nói thêm: Đừng nghĩ về nó, mà hãy thử nó!

Cảm ơn ông rất nhiều, Mr.Imamura !.


Phan 6 Twist-2.jpg


(Hết phần 6 - Còn tiếp)
 
Last edited:

8xOnline

Trung Uý
Hay thật, đúng là nghiện rồi đọc cái gì cũng thấy hay.
Cái này mà đem đi ngồi bàn nhậu lý sự thì bá đạo chú Út ạ. Cháu hay nhậu nên sẽ bổ sung vào cái đầu mới được. Cháu đang hóng dòng ZLC, ALC, ULC,....
 

NTBB

Super Moderators
Hay thật, đúng là nghiện rồi đọc cái gì cũng thấy hay.
Cái này mà đem đi ngồi bàn nhậu lý sự thì bá đạo chú Út ạ. Cháu hay nhậu nên sẽ bổ sung vào cái đầu mới được. Cháu đang hóng dòng ZLC, ALC, ULC,....

Chả riêng gì 8x mới thấy "bá đạo" khi ngồi nhậu mà bàn chuyện BB. Đến 5x như bọn chú đây, sau mỗi buổi chơi bóng, ra bàn nhỏ làm 1- 2 ve thôi mà cũng mất thời gian bằng hoặc dài hơn thời gian đánh bóng cũng chỉ bàn về "vũ khí, kỹ thuật, chiến thuật"... Đúng là dân nghiện gặp nhau, hihi !!!
 

NTBB

Super Moderators
Kiến thức về trang thiết bị BB đến từ một chuyên gia của hãng Buterfly - tiếp

11WCBWP.jpg


Phần 7. Chúng tôi có nhiều sản phẩm để cung cấp cho những người chơi theo phong cách phòng thủ hoặc phòng thủ toàn diện!
(6/2004)


Mục Chuyên gia Nói chuyện gần đây với Giám đốc Thể thao của Butterfly Mario Amizic là nói về lối chơi phòng thủ. Tất nhiên tên của VĐV Hàn Quốc Joo Se Hyuk đã được đề cập đến, anh hiện đang là cầu thủ chơi phòng thủ tốt nhất. Joo là cầu thủ hợp đồng của Butterfly. Vật liệu của anh ta là gì?

Bên mặt thuận tay là TACKIFIRE D 1,9 mm, bên trái tay là FEINT LONG II với lớp lót 1,3 mm.

Ông nói TACKIFIRE D. Loại mút này không thấy hiển thị trong danh mục của Butterfly 2003/2004 hiện tại. Nó là phiên bản đã lỗi thời?

Quả thật, ở châu Âu, chúng tôi đã đưa nó ra khỏi thị trường. Tại châu Á, nó vẫn còn có sẵn. Tại thời điểm này chúng tôi đang làm việc tích cực để cải tiến TACKIFIRE D. Tuy nhiên, tôi chưa thể nói khi nào thì chúng tôi sẽ hoàn thành.

Nếu TACKIFIRE D vẫn còn trên thị trường châu Á, thì nó sẽ sẵn sàng theo yêu cầu tại TBE ở Moers, phải không?

Tất nhiên là có. Một cuộc gọi điện thoại là đủ.

Trở lại với JooSeHuyk. VĐV Hàn Quốc dùng keo tốc độ bên mặt thuận tay của anh ta. Đó có là sự thật?

Vâng, đó là sự thật. Bằng cách này các cú tấn công thuận tay của anh ta mạnh mẽ và nguy hiểm hơn. Một vài năm trước đây, anh ta đã cố gắng để sử dụng keo tốc độ bên trái tay, nhưng rồi lại bỏ sau một thời gian.

Bên cạnh Joo, Butterfly có hợp đồng với một VĐV có lối chơi phòng thủ khác thuộc hạng siêu đẳng, VĐV người Nhật Koji Matsushita. Sự khác biệt giữa 2 VĐV này là gì?

Đó là bên thuận tay. Joo thực sự không phải là một người chơi phòng thủ theo lối cổ điển. Anh ta hiếm khi phòng ngự với bên thuận tay của mình, mà cố gắng thực hiện các cú đánh xoáy lên càng thường xuyên càng tốt. Do đó lối phòng ngự bên thuận tay của anh ta là khá tích cực. Đối với tôi Joo là VĐV chơi theo phong cách toàn diện nhiều hơn, phòng thủ bằng gai dài bên phía trái tay của mình. Anh ta khiến tôi nhớ đến VĐV Trung Quốc Ding Song, VĐV chơi phòng ngự thành công nhất trên cấp độ đỉnh cao quốc tế. Trong khi đó Matsushita là một người chơi kiểu phòng ngự cổ điển, chủ yếu chơi phòng thủ cả hai bên, và lối phòng thủ này rất an toàn. Do đó anh ta hiếm khi tấn công và có thể dễ phán đoán các cú tấn công của anh ta.

Matsushita sử dụng những mặt vợt gì?

Bên mặt thuận tay là TACKIFIRE D 1,9 mm màu đen, và FEINT LONG II màu đỏ với lót 0,5 mm bên mặt trái tay – một sự kết hợp quá cổ điển.

Mr.Imamura, ông thấy tương lai của các VĐV chơi phòng thủ như thế nào trên cương vị là một chuyên gia về vật liệu?

Điều này phụ thuộc nhiều vào suy nghĩ của các huấn luyện viên. Đối với tôi cơ hội trở thành vô địch thế giới của một VĐV chơi theo phong cách phòng thủ gần như ở mức 0%. Có thể thấy rằng hầu như chẳng có bất kỳ một VĐV phòng ngự mạnh mẽ nào còn lại, đặc biệt là ở châu Âu. Và nếu bạn không đào tạo lối chơi phòng ngự nữa, bạn cũng sẽ quên cách chơi đối phó với phong cách này. Tuần trước tại giải vô địch trẻ quốc tế ở Ba Lan chỉ có hai VĐV phòng thủ, một người Đức và một người Nhật Bản, cả hai thực sự không nổi bật. Cả hai đã bị bật ra khỏi tốp đầu. Về điều này tôi không thể thực sự đưa ra một dự đoán. Lối chơi phòng ngự toàn diện chắc chắn là không chết, đặc biệt là ở trình độ cơ bản, bởi không phải tất cả mọi người đều là những người chơi tấn công tích cực.

Butterfly cung cấp rất nhiều vật liệu cho những người chơi phòng thủ, các loại mặt vợt và cốt vợt. Và ở trình độ cơ bản trong các giải đấu địa phương hoặc khu vực có khá nhiều VĐV phòng thủ. Liệu Butterfly có nhìn nhận những cầu thủ này một cách nghiêm túc?

Rất nghiêm túc, vì chúng ta biết chính xác rằng các cầu thủ cơ sở này chơi khác với các VĐV hàng đầu. Đặc biệt là các VĐV phòng thủ và phòng thủ toàn diện có thể được thấy với số lượng khá lớn. Mặt hàng mặt và cốt vợt của chúng tôi có nhiều để cung cấp cho những người này và chúng tôi đang cố gắng tích cực để đưa sản phẩm mới vào thị trường.

Đầu tiên chúng ta hãy nói về gai dài. Phân khúc gai ngửa đã cung cấp FEINT SOFT và FEINT Long II, cả hai cũng có sẵn trong các phiên bản OX không có lót. Sự khác biệt giữa hai sản phẩm kinh điển là những gì?

FEINT LONG II là mặt gai dài thực sự của Butterfly. Nó có gai dài nhất mà quy định của ITTF cho phép.

Hiệu quả thực tế của gai dài là những gì?

Tôi có thể tạo ra xoáy xuống tối đa để đối phó với xoáy lên.

Và đâu là vấn đề ở FEINT LONG II, đối với mỗi lợi thế thường ẩn chứa một bất lợi nào đó?

Tất nhiên chơi trên bàn hoặc gần bàn khi đẩy bóng hoặc trả bóng là không dễ dàng, mọi người phải tập luyện nhiều để có được những cảm giác.

Và những gì khi nói về FEINT SOFT?

FEINT SOFT thực tế có gai trung bình, nhưng lót là khá mềm và dành để phòng thủ. Tất nhiên FEINT SOFT, tương tự như mặt gai ngắn, cung cấp nhiều lựa chọn hơn. Vì vậy nó phòng thủ bằng cắt bóng là không nguy hiểm như với FEINT LONG II.

Một lời về phiên bản OX không có lớp lót?

Để phòng thủ bằng các cú cắt thì không lót chắc chắn là một phương pháp an toàn nhất. Việc phòng thủ có độ kiểm soát rất cao. Nhưng nó là hoàn toàn thụ động. Đối với những người chơi chỉ muốn trả bóng với bên trái tay của họ thì đây là lựa chọn khả dĩ. Nhưng đối với những người muốn chơi chủ động và biến hóa với gai dài của họ, ví dụ như chặn bóng hay đánh các cú bóng xoáy lên, thì tôi nhấn mạnh là không nên sử dụng phiên bản OX.

Ông vừa nói giật bóng với FEINT LONG II hoặc FEINT SOFT. Tôi có thể làm như vậy?

Vâng, vâng, tất nhiên người ta có thể tấn công với các loại mặt vợt; lớp lót càng dày càng tốt. So với các loại mút láng thông thường tất nhiên các loại gai dài là khó khăn hơn và phải tập luyện nhiều. Nhưng những người có thể chơi biến hóa sẽ gây ra nhiều khó chịu cho đối thủ.

Các công ty bóng bàn khác cũng đã đưa một số mặt gai dài ra thị trường. Một số trong đó được đặt tên là "vũ khí bí mật". Thị trường thật rộng lớn. Có những phát triển mới ở Butterfly?

Chúng ta biết không nên đánh giá thấp thị trường. Đặc biệt là ở trình độ trung bình hoặc thấp hơn. Nhưng nguyên tắc cao nhất của chúng tôi - điều này đưa đến bảng xếp hạng hoàn chỉnh các loại mặt vợt của chúng tôi – đó là chất lượng. Chúng tôi biết rất rõ rằng các thương hiệu khác đã sản xuất các mặt gai dài mềm hơn so với chúng tôi. Chúng tôi cũng muốn khởi động một loại mặt gai dài mềm hơn, nhằm làm cho nó nguy hiểm hơn về xoáy và sự biến hóa. Nhưng đồng thời chúng ta cũng biết rằng gai mềm sẽ có vấn đề lớn về độ bền. Các gai mềm thì dễ bị gãy hơn. Ở trình độ đỉnh cao có thể là đến sec thứ 5 là đã có 2 hoặc 3 gai bị gãy. Tại sao FEINT LONG II đã rất thành công, rất có khả năng là loại gai dài thành công nhất trên thế giới? Bởi vì nó bền. Đó là lý do tại sao nó được Á quân thế giới cũng như các cầu thủ các địa phương, các vùng sử dụng. Nhưng như đã nói, chúng tôi đang làm việc rất tích cực để phát triển một mặt gai dài mềm hơn, nhưng vẫn dẻo dai.

(Hết phần 7 - Còn tiếp)
 
Last edited:

NTBB

Super Moderators
Kiến thức về trang thiết bị BB đến từ một chuyên gia của hãng Buterfly - tiếp

11WCBWP.jpg


Phần 8. Không có mặt mút láng phòng thủ thực sự!
(8/2004)


Lần gần đây nhất, chủ đề của chúng ta là chương trình Gai Dài của Butterfly. Hôm nay chúng tôi muốn nói về loại mút láng phù hợp với lối chơi phòng thủ và tất nhiên là cả về các loại cốt vợt phòng thủ của Butterfly.

Có các loại mặt mút láng phòng thủ đúng nghĩa nào, ngoại trừ SUPER ANTI?

Đây là sự thật: tất nhiên là không có mặt phòng thủ thực sự nào với mút láng. Sự lựa chọn các loại mặt vợt cho những người chơi với thiên hướng phòng thủ phụ thuộc vào phong cách chơi của họ - chứ không phải vào việc thụ động hơn hay tấn công hơn với cú đập bóng và đối xoáy. Và mỗi cầu thủ có phản ứng khác nhau đối với các loại mặt vợt. Một số người thích loại mềm hơn, số khác lại thích loại cứng. Đây là những gì khiến rất khó để đưa ra một lời khuyên đúng 100% về mặt vợt. Chúng tôi chỉ có thể thiết lập một định hướng dựa trên kinh nghiệm của các cầu thủ hợp đồng của chúng tôi, khách hàng của chúng tôi và nhiều người trong các bài kiểm tra của chúng tôi.

Với mặt mút TACKINESS trong phiên bản C và D, Butterfly trong nhiều năm đã cung cấp 2 loại mút rất bám và khuyến cáo để chơi phòng thủ. Cái tên xuất phát từ "độ bám". Những phẩm chất nhất định và sự khác biệt là gì?

Thực sự là chương trình TACKINESS được thực hiện cho các cầu thủ phòng thủ hoặc phòng thủ toàn diện và đã thành công trong nhiều thập kỷ, tương tự như chương trình SRIVER. TACKINESS C có lớp lót và lớp mặt trên cùng mềm hơn so với phiên bản D. Do đó nó có thể tạo ra độ xoáy tối đa. Nhưng rõ ràng là nó chậm hơn so với D. Phiên bản D là hơi cứng hơn hơn và nhanh hơn, nhưng vẫn có độ bám dính đáng kể. Cả 2 loại mút này đều có thể thực hiện các cú giật hoặc đập bóng, tuy nhiên nó vẫn khác so với BRYCE. Ta không nên quên rằng tại ở trình độ cơ bản, đặc biệt là các cầu thủ lớn tuổi thích chơi phòng thủ toàn diện kiểm soát nhiều hơn - những loại mút tấn công hiện đại là quá nhanh cho điều đó.

Ngoài ra còn có mặt TACKIFIRE SPECIAL và TACKIFIRE SPECIAL SOFT. Những loại mút này có bất cứ điều gì chung với các loại mút TACKINESS hay chúng hoàn toàn khác nhau?

Các loại mút TACKIFIRE được thiết kế dành cho các cầu thủ chơi tấn công. Lớp lóy cũng như lớp bề mặt là khá cứng. Loại SOFT - như cái tên đã thể hiện - có một miếng lót mềm hơn và vì thế mặt mút trở nên đàn hồi hơn. Để làm cho rõ nó: TACKIFIRE không phải là một cải tiến của chương trình TACKINESS, mà là một sự phát triển hoàn toàn mới, trong đó xem xét đến các thuộc tính điển hình của các loại mút Trung Quốc, nhưng kết hợp nó với công nghệ chế tạo mút Nhật Bản. Ai đã từng trải nghiệm các loại mút của Trung Quốc trước đây đều biết chúng là loại mút dính và cứng như thế nào. Tuy nhiên, mặt TACKIFIRE không phải là một bản sao của mút Trung Quốc, mà phần tạo độ cứng hơn là của chương trình chúng tôi.

Nhưng sau đó mút TACKIFIRE có phù hợp với kiểu chơi phòng thủ bằng xoáy xuống?

Một cầu thủ phòng thủ hiện đại có thể chơi với các phiên bản mút mềm. Trên bàn nó tạo ra xoáy cực cao, và với keo tốc độ anh ta sẽ rất thích hợp cho việc chơi đối xoáy gần cũng như xa bàn. Và tôi muốn nhấn mạnh, rằng mút TACKIFIRE rất bền và đàn hồi, và độ bám được duy trì trong thời gian dài.

Chúng ta hãy trở lại với mặt TACKINESS. Loại nào trong 2 phiên bản là tốtcho lối chơi phòng thủ bằng cắt bóng?

Chắc chắn là TACKINESS C. Nó có độ kiểm soát và chính xác rất cao, và được đề nghị dùng nó cho tất cả những người chơi theo lối đẩy (gò – ND) và cắt bóng nhiều. Tất nhiên TACKINESS C là một mặt mút có tính chất thụ động. Đó là lý do tại sao lại có loại TACKINESS D, vẫn với những phẩm chất chơi bóng điển hình của TACKINESS, nhưng nó có khuynh hướng nảy hơn đối với các cú đánh. Một loại mút cho lối chơi công thủ toàn diện điển hình.

Cuối cùng là một câu hỏi về một cái gọi là quy tắc vàng trong sự lựa chọn mút. Người ta nói: Lớp lót càng mỏng, thì độ kiểm soát sẽ nhiều hơn và có thể tạo ra nhiều xoáy hơn. Quy tắc này có hợp lý?

Một phần. Khi đẩy bóng với xoáy xuống ở trên bàn, hoặc khi giao bóng, tôi vào đánh bóng với tốc độ nhỏ. Bóng không lún sâu vào mặt mút nhiều như khi đánh cú đối xoáy chẳng hạn. Lúc đó độ bám của lớp bề mặt trên cùng có tầm quan trọng nhiều hơn. Có sự khác nhau khi phòng thủ ở cự ly gần bàn. Khi tôi muốn phòng thủ các cú giật hoặc đập bóng nhanh bằng xoáy xuống, thì một miếng lót dày hơn là một lợi thế. Cũng như khi chơi bóng xoáy lên. Bóng lún sâu hơn vào miếng lót, là cái đóng vai trò quan trọng trong việc tạo xoáy. Vì vậy, việc lựa chọn đúng độ dày của miếng lót phụ thuộc vào những điểm mạnh và điểm yếu của tôi trong trò chơi của mình. Khi nói về những người phòng thủ kiểu cổ điển, hiếm khi tấn công, chủ yếu là đẩy bóng (gò – ND) và chơi thụ động, thì khuynh hướng sử dụng mút mỏng hơn có nhiều ý nghĩa. Một cầu thủ phòng thủ hiện đại với cú đánh xoáy lên của mình được khuyên tốt hơn là nên sử dụng một miếng lót dày hơn.

Chúng ta hãy xem xét chương trình cốt vợt cho các cầu thủ phòng thủ của Butterfly. Butterfly đưa ra 3 mô đen cốt phòng thủ. Ông có thể phác thảo ra sự khác biệt giữa chúng?

Cốt DEFENCE ALPHA DEF là một kiểu vợt phòng thủ cổ điển của chúng tôi. Trước đây nó chỉ được đặt tên là DEFENCE. Nó có 3 lớp và hướng tới phía cán cầm lại trở thành 5 lớp. Điều này mang lại cho nó sự ổn định cần thiết. Gỗ liễu mềm tạo độ kiểm soát rất lớn.

Cốt DEFENCE ALPHA DEF là loại cốt cợt chậm nhất phải không?

Người ta không thể nói điều này như thế. Không có cốt phòng thủ nào của chúng tôi là thực sự chậm. Chúng có thể được so sánh với các cốt All Round (chơi công thủ toàn diện – ND) của chúng tôi. Sự khác biệt là ở kích thước của mặt vợt. Tất cả 3 cốt đều có kích thước mặt lớn hơn so với các cốt vợt All round hoặc tấn công. Tất nhiên có những loại cốt phòng thủ chậm hơn trên thị trường. Nhưng những loại cốt này chỉ thực sự thích hợp cho người chơi phòng thủ thụ động hoàn toàn và điều này đã thuộc về quá khứ. Các VĐV phòng thủ hàng đầu chưa bao giờ chơi cốt chậm. Do đó chúng tôi không có những loại cốt này trong chương trình của chúng tôi.

Nghệ sĩ phòng thủ Joo Se Hyuk của hàn Quốc, hiện là á quân tại Giải vô địch Thế giới, và Koji Matsushita của Nhật Bản đã sử dụng loại vợt nào?

Koji dùng cây KOJI MATSUSHITA PRO DEF, được phát triển với sự giúp đỡ của anh ta, và JOO là với DIODE, một loại cốt Butterfly đời cũ nay không còn trên thị trường và nó chậm hơn một chút so với ANDREJ MAZUNOV OFF+. Cây DIODE cũ là một cốt vợt rất nhạy cảm, dễ bị biến dạng. Đó là lý do tại sao chúng tôi loại nó ra khỏi thị trường. Nhưng chúng tôi đang nghiên cứu một phiên bản sau ổn định hơn, vì nó khá độc đáo với các tính năng chơi bóng của nó.

Cây nào cứng nhất trong 3 cốt phòng thủ của Butterfly?

Chắc chắn là MATSUSHITA POWERDEFENCE DEF. Nó cho phép nhiều biến hóa. Tiếp theo là KOJI MATSUSHITA PRO DEF. Tiện đây cũng nói rằng, cả hai cốt này có kích thước mặt tăng lên rõ rệt. Chúng là hoàn hảo cho lối chơi phòng thủ hiện đại.

Việc nới rộng mặt cốt là cần thiết?

Không, không thực sự, nhưng đó là truyền thống. Bằng cách này, cốt vợt sẽ nặng hơn 1 chút. Nhưng vì các VĐV phòng ngự chơi mặt mút mỏng hơn nên điều này sẽ cân bằng cho cây vợt. Vẫn còn nhiều VĐV chơi phòng thủ thường không thích vợt nhẹ hơn. Tất cả các cú phòng thủ cắt bóng thường đi từ trên cao xuống dưới giống như một cái rìu chặt xuống, và do đó bạn cần có một trọng lượng nhất định.

Phan 8 .jpg


(Hết phần 8 - Còn tiếp)
 
Last edited:

NTBB

Super Moderators
Kiến thức về trang thiết bị BB đến từ một chuyên gia của hãng Buterfly - tiếp

11WCBWP.jpg


Phần 9. Các nhà vô địch Olympic của Butterfly tin cậy vào RADIAL TB

Trong cuộc trò chuyện với tạp chí "Tin tức Butterfly", ông Taisei Imamura cho nhiều lời khuyên, thông tin và ý tưởng về "Giày".

Ông Imamura, có một truyền thống của nhà Butterfly là việc phát triển giày bóng bàn đặc biệt tốt. Đằng sau triết lý này là gì?

Giày là một phần trong 3 trang bị quan trọng nhất của các cầu thủ bóng bàn: cốt vợt, mặt vợt và giày. Bất cứ điều gì khác có thể thay đổi từ ngày này sang ngày khác. Nhưng 3 vật liệu này thì không.

Các cầu thủ bóng bàn luôn nhạy cảm liên quan đến giày?

Trong mọi trường hợp. Các cầu thủ có những ý kiến rất khác nhau về một đôi giày bóng bàn hoàn hảo. Không chỉ các cầu thủ đỉnh cao. Do đó là không đủ nếu chỉ cung cấp 1 hoặc 2 loại giày bóng bàn.

Tại thời điểm này (12/2004 – ND)Butterfly có 5 mẫu giày bóng bàn khác nhau và 1 mẫu giày chạy bộ trong chương trình, nhiều hơn bất kỳ nhà cung cấp thiết bị nào khác. Như thế đã là đủ?

Trên toàn thế giới, chúng tôi cung cấp trên 20 mẫu mã.

Huyền thoại là giày RADIAL của Butterfly với đế có màu xanh lá cây, đã xuất hiện tại Đức trong những năm 60 (của thế kỷ trước – ND).

Đây là loại giày bóng bàn không có miếng đệm bàn chân và rất mỏng, nhẹ và bám. Nó được đúc bằng cao su lưu hóa. Loại giày này thực sự thời trang. Những nhãn hiệu khác cũng có những kiểu giày này.


Những loại giày bóng bàn này hiện nay đã không còn nữa, phải không?

Hiện đang có, nhưng không phải ở châu Âu. Ở châu Á loại giày này vẫn là quan trọng nhất. Điều này đã được thực hiện bởi 1 thực tế là ở châu Á, đặc biệt là ở Nhật Bản, sàn nhà được làm bằng gỗ. Trên loại sàn này, người ta không cần những đôi dày giảm xóc nhiều như trên các sàn thể thao cứng.

Chúng ta hãy nhìn vào những đôi giày trong catalogue của Butterfly gần đây. Mođen mới RADIAL TB là đắt nhất. Nó có phải thuộc loại giày truyền thống RADIAL ngày trước?

Không, hoàn toàn không. Loại này gần với loại V7 hơn. Phần phía trên và phần đế của RADIAL TB được dán một cách đặc biệt. Sản phẩm được chế tạo với những kiến thức mới nhất của những nghiên cứu về giày thể thao. Phần giữa của đế đã được trang bị bằng một yếu tố kết nối ổn định mà sẽ đảm bảo giày không thể bị nghiêng sang một bên. Chức năng này cũng được đưa vào trong loại CROSSCOURT. RADIAL TB được thiết kế rộng hơn ở phần trước của bàn chân, nhờ đó nó được phân phối thành công trên thị trường châu Á, và người châu Á có xu hướng có phần phía trước của bàn chân rộng hơn người châu Âu. Tuy nhiên, chúng tôi còn quan tâm đến sự khác nhau giữa người Nam Âu, thường có phần trước của bàn chân thậm chí còn mảnh hơn so với người Bắc Âu.

Hiện nay có mẫu nào là giày mỏng nhất?

Chúng tôi không cung cấp những đôi giày đặc biệt mỏng ở tất cả mọi nơi, mà các mô đen CLASSIC, OPTIMO và CROSSCOURT là mỏng hơn đáng kể và phù hợp hơn đối với chân người châu Âu.

Có những tiêu chí khác để thiết kế giày bóng bàn, ngoài hình dạng của bàn chân?

Tất nhiên, đó là phong cách chơi. Ở châu Á lối chơi tấn công được chi phối với các cú đánh phía thuận tay được ưa thích. Luôn tránh các cú đánh trái tay. Với những người này tôi cần phải có một đôi giày đặc biệt. Các đôi giày cần phải rất nhẹ và các cạnh của mặt trước của giày phải bo tròn để có được một áp lực hoàn hảo. RA-DIAL TB và V7 hoàn toàn đáp ứng các tiêu chí này, trong đó V7 giữ nguyên truyền thống của RADIAL 808 là nhẹ hơn so với RADIAL TB. Như đã đề cập trong phần đầu, các mô đen RADIAL cũ đã không có bất kỳ hệ thống giảm xóc nào và do đó, đặc biệt là các cầu thủ hàng đầu mà sử dụng nó trong nhiều thập kỷ đã bị các vấn đề về đầu gối. Do đó những loại giày này khó có thể được nhìn thấy trong phân khúc trình độ đỉnh cao nữa.

RADIAL TB là mô đen hàng đầu trong công nghệ giày của Butterfly. Nó được chế tạo đặc biệt cho các cầu thủ đỉnh cao?

Tất nhiên chúng tôi muốn có các loại giầy tất hoàn hảo cho các cầu thủ hàng đầu của chúng tôi. Tôi đã không giấu đi bất kỳ bí mật nào nếu tôi đề cập đến việc cả các VĐV vô địch Olympic, Ryu Seung Min và Zhang Yining, và dĩ nhiên cả Timo Boll và nhiều VĐV khác cũng vậy, đã sử dụng RADIAL TB. Cả CROSSCOURT không nên bị lãng quên trong những nhận xét này, vì nó có hệ thống ổn định tương tự ở phần giữa. Phần đế là dày hơn so với tất cả và nhỏ gọn hơn, hình dáng là mảnh hơn. Một mẫu giày đặc biệt phục vụ nhu cầu của các VĐV châu Âu và được một số cầu thủ hợp đồng của Butterfly chấp nhận.

Có thể nói gì về các mô đen CLASSIC và OPTIMO?

Cả hai đều là những kiểu giày bóng bàn rất chắc chắn đáp ứng tất cả những của trò chơi và rẻ tiền mà chưa có một thay thế trong các mô đen hàng đầu của chúng tôi. OPTIMO còn là một kiểu giày mỏng nhất trong phân loại của chúng tôi.

Một lời về chạy bộ mới, giày RADIAL RUN. Loại giày này thích hợp với ai?

Nó được dành cho những người hâm mộ Butterfly muốn có một đôi giày thích hợp cho việc chạy bộ 1 hoặc 2 lần một tuần, bên cạnh giày đánh bóng bàn của họ. Nó không phải là dành cho các vận động viên của môn chạy chuyên nghiệp. Đó là công việc của các công ty khác. Giày này là cho những fan hâm mộ sản phẩm Butterfly.

Cảm ơn ông rất nhiều, ông Imamura!

Phan 9 - Giay bong ban.jpg


(Hết phần 9 - Còn tiếp)
 
Last edited:

NTBB

Super Moderators
Kiến thức về trang thiết bị BB đến từ một chuyên gia của hãng Buterfly - tiếp

11WCBWP.jpg


Phần 10. FEINT LONG III dành cho rơ phòng ngự cắt bóng nguy hiểm ; TACKIFIRE C dành cho rơ đánh nhiều lực gần bàn.

Thưa ông Imamura, Butterfly đã giới thiệu hai loại mặt vợt mới tại ISPO vào mùa xuân (2004 - ND) tại Munich: FEINT LONG III và TACKIFIRE C. Một loại là mặt gai dài, loại kia là một mặt mút tấn công cực bám. Đầu tiên hãy nói về FEINT LONG III, một loại mặt gai được phát triển một cách thành công bởi 1 loại mặt vợt khác. Bằng loại gai dài này, các chuyên gia sẽ có một sự thay thế bên cạnh những FEINT và FEINT LONG II. Sự khác biệt của FEINT LONG III với những “người tiền nhiệm” của nó là gì ?.

Hãy đi vào vấn đề: đó là nó có nhiều nguy hiểm hơn so với FEINT LONG II. Mặt vợt được thiết kế mềm và đặc biệt dành cho các VĐV phòng thủ thích cắt bóng phòng ngự xa bàn. Bản thân mặt cao su là mềm hơn và đàn hồi hơn.

Ông nói FEINT LONG III là nguy hiểm hơn. Điều này là do nó được làm tăng độ mềm, do đó có tác dụng tạo xoáy nhiều hơn?

Thực sự là thiết kế mặt cao su mềm hơn sẽ làm cho cú cắt phòng thủ đối phó với xoáy lên được kiểm soát tốt hơn và xoáy hơn một cách rõ ràng. Khi chơi trên bàn và đẩy bóng thì nó không có khả năng tạo nhiều xoáy như với FEINT LONG II. Để lấy một ví dụ từ các VĐV hàng đầu: Cầu thủ Joo Se Hyuk hiện là VĐV chơi lối phòng thủ tốt nhất của chúng tôi, là Á quân Giải VĐ Thế giới năm 2003, làm nản chí đối thủ của mình bằng việc phòng thủ với xoáy xuống cực kỳ an toàn và phản công với những cú đánh thuận tay mạnh mẽ. Với anh ta FEINT LONG III là 1 mặt vợt lý tưởng. Nhưng ai đứng gần bàn để chặn hoặc phản công với gai dài của mình thì nên tin cậy ở FEINT hoặc FEINT LONG II.

FEINT LONG II đã được thử nghiệm bởi bất kỳ cầu thủ hợp đồng nào của Butterfly?

Không chỉ được thử nghiệm. Ở châu Á mặt vợt này đã có mặt trên thị trường. Hai nghệ sỹ phòng thủ người Nhật Bản là Matsushita và Shibutani đã sử dụng nó thành công trong thời gian dài. Những VĐV phòng thủ châu Âu ký hợp đồng với chúng tôi hiện đã thử nhiệm nó và phản hồi là đầy hứa hẹn.

FEINT LONG III có các phiên bản nào hiện đã có và giá của chúng?

Các độ dày 0,5, 1,1 và 1,3mm cũng như không có có lớp lót đã có sẵn. Giá sẽ vào khoảng 34,90 €.

phan 10 - Feint Long III.jpg


Hãy trở lại với TACKIFIRE C. Các mặt vợt của Butterfly nào có tên bắt đầu bằng "TACKI" thường là có độ bám đáng kể. Làm thế nào mà TACKIFIRE C lại được nhìn thấy trong “gia đình” TACKI?

Các mặt vợt có độ bám cao thường là mềm hơn. Ví dụ TACKINESS C là mặt mút có lớp mặt mềm nhất và do đó rất bám. Nhưng việc thiết kế để nó mềm hơn sẽ khiến nó chậm hơn. TACKINESS D thì cứng hơn một chút và do đó nhanh hơn, trong khi TACKIFIRE SPECIAL kết hợp một miếng lót cứng với một bề mặt mềm mại và vì thế nó vẫn là mút nhanh hơn. Mặt TACKIFIRE C có một vài thứ mới: miếng lót và lớp bề mặt thuộc loại cứng. Cho đến bây giờ TACKIFIRE C không phải là một cải tiến của các loại mặt TACKINESS hoặc TACKIFIRE hiện có, mà là một sự phát triển thực sự mới, là niềm tự hào của chúng tôi. Với TACKIFIRE C chúng tôi trình bày một loại mặt mút hoàn toàn mới thích hợp một cách lý tưởng cho lối chơi tấn công hiện đại. Một mặt, miếng lót được thiết kế cứng, mặt khác chúng tôi đã đưa vào một phát triển hoàn toàn mới, bề mặt cứng, nhưng vẫn có độ bám cực cao. Cứng và bám thực sự là không mâu thuẫn.

TACKIFIRE C có thể được so sánh với mút cứng và bám của Trung Quốc?

Trong một chừng mực, nhưng chúng tôi đã thành công để giữ sạch mặt mút, do đó nó không bị bẩn và không cần phải có tấm nhựa để bảo quản độ bám.

Như vậy, TACKIFIRE C là một sản phẩm hoàn toàn mới của họ nhà Butterfly với triển vọng thành công cao trong phân khúc đỉnh cao?

Người ta có thể nói như vậy. ZHANG YINING đã trở thành nhà vô địch Olympic với nó. Ngày càng có nhiều cầu thủ hợp đồng châu Á của chúng tôi tin tưởng vào TACKIFIRE C. Đặc biệt là ở phía mặt thuận tay. Một số cầu thủ hợp đồng châu Âu của chúng tôi hiện cũng đã thử nó.

Có gì đặc biệt tốt với TACKIFIRE C?

Không nghi ngờ gì đó là khả năng đối xoáy gần bàn. Và trong bóng bàn hiện đại thì đây là một trong những cú đánh chủ yếu. Và các cú tấn công trên bàn với các động tác ngắn cũng có thể được thực hiện tốt. Khi chơi ở cự ly trung bình thì nó không phải là lý tưởng, đối với lối đánh ở cự ly này thì BRYCE hoặc SRIVER có thể được khuyên dùng.

Ông nói: TACKIFIRE C là đặc biệt thích hợp cho cú đánh thuận tay. Tại sao?

Sức mạnh đầy đủ của TACKIFIRE C chỉ có thể được sử dụng ở những cú đánh có tốc độ cao. Và chúng được tạo ra bởi những chuyển động dài hơn mà chỉ có thể được thực hiện với cú đánh thuận tay tự do nhiều hơn. Do đó TACKIFIRE C là một mặt mút điển hình cho cú đánh thuận tay. Ở phía trái tay thì các VĐV hàng đầu của Trung Quốc thích SRIVER hoặc BRYCE hơn.

Độ dày nào của TACKIFIRE C được cung cấp và giá cả của chúng?

1.7, 1.9 và 2.1 mm; giá là 41,90 €.

Cảm ơn ông rất nhiều, ông Imamura !

(Hết Phần 10 - Còn tiếp)
 
Last edited:

NTBB

Super Moderators
Kiến thức về trang thiết bị BB đến từ một chuyên gia của hãng Buterfly - tiếp

11WCBWP.jpg


Phần 11. Hai cây cốt mới lạ, tạo ra những cảm giác

(3/2005)

Với CREANGA CARBON OFF+ và BALSA CARBO X5 OFF, Buterfly giới thiệu 2 cây vợt mới thực sự trong dòng vợt Carbon cho mùa giải tới.

Ông Imamura , chuyên gia về vật liệu của hãng Butterfly, sẽ giải thích những đặc điểm mới và cung cấp thông tin về sự thành công của các loại vợt của Butterfly trên toàn thế giới.

Ông Imamura, tại giải vô địch cá nhân Thế giới năm 2003 gần đây tại Paris có đến 52% số VĐV tham gia sử dụng vợt Butterfly. Đây là một kỷ lục và là một bằng chứng thực sự của sự tin tưởng vào chất lượng của các loại vợt Butterfly. Trong những năm gần đây Butterfly không chỉ tăng số lượng các cầu thủ hàng đầu sử dụng vợt Butterfly, mà cả các số liệu bán hàng nói chung. Ông có thể cho biết nguyên nhân của sự phát triển này là gì?

Thực sự đã có một xu hướng tích cực rõ ràng . Hãy có một cái nhìn gần hơn để nhận ra rằng có ba nhóm vợt tạo ra sự thành công này. Tôi đang nghĩ về phạm vi rộng của chúng tôi gồm các vợt Carbon, Viscaria, và vợt cổ điển 5 lớp gỗ tự nhiên. Sự kết hợp của gỗ cây bách Nhật Bản với các vật liệu Carbon là không được cung cấp bởi các công ty khác. “Mẹ” của những cây vợt carbon này là TAMCA CARBON GERGELY huyền thoại, mà hiện vẫn được bán rất thành công, cũng bằng cách này. Các loại cốt khác như CARBON SCHLAGER OFF + hoặc PRIMORAC CARBON OFF+ được gọi là những "đứa trẻ", mà tất nhiên đã có những thay đổi nhất định. Và cây cốt mới KREANGA CARBON OFF+ cũng là một đứa trẻ như vậy.

Bạn đang đề cập đến CARBON KREANGA MớI OFF+ . Cây vợt mới lạ này được chế tạo như thế nào ?

Nói chung là tương tự như các cốt vợt Carbon đã đề cập trước. Ở mặt ngoài, chúng tôi sử dụng lớp gỗ Hinoki cứng. Sau đó có một lớp carbon mỏng. Và lớp gỗ bên trong là gỗ Kiri của Nhật Bản, một loại gỗ rất nhẹ, nhưng vẫn còn cứng hơn nhiều so với gỗ Balsa nổi tiếng. Đó là lý do tại sao chúng ta nói về một cấu trúc 3+2, vì chúng ta không coi Carbon như là một lớp gỗ. Cái mới của KREANGA CARBON OFF+ là ở lớp Carbon. Thông thường Carbon được thiết lập như một cấu trúc hình lưới. Lớp sợi Carbon của KREANGA CARBON OFF + bây giờ được xếp hàng theo cùng một hướng. Các sọc này làm giảm lượng carbon và làm cho cốt nhẹ hơn so với cốt vợt Carbon khác. Thời gian trước đây, chúng tôi được yêu cầu thiết kế một cốt vợt Carbon nhẹ hơn, bởi vì cốt Carbon thường nặng hơn cốt gỗ bình thường.

Lớp trang trí bên ngoài của KREANGA CARBON OFF+ được bố trí màu xám kim loại. Tại sao lại có phong cách mang tính tương lai này?

Chúng tôi muốn nhấn mạnh tính chất Công nghệ cao của cây vợt và đã phát triển một loại sơn đặc biệt để làm cho điều này được nổi bật một cách có thể.

Không thấy có sự thay đổi ở cán vợt, vì không thể nhìn thấy các lớp gỗ ở phần cán vợt nữa ?

Có, chúng tôi không chỉ đơn giản là thêm vào lớp bảo vệ, mà còn đặt sâu phía trong một lớp gỗ gần giống như cái găng tay và che nó đi. Bằng cách này, cán vợt thậm chi vừa khít trong tay hơn.

Chúng ta hãy trở lại với các thành công của các cốt vợt Butterfly đã được đề cập ngay từ đầu . Ông đã nói về nhóm cốt Viscaria . Những gì là đặc trưng của nhóm này ?

Ban đầu – hay vợt mẹ của nhóm này - là VISCARIA OFF. Các em bé là TIMO BOLL SOIRIT OFF và MICHAEL MAZE OFF . Chúng có điểm chung, đó là Carbon và Arylate được sử dụng mỗi thứ 50 %. Các mẫu vợt khác nhau một chút bởi lớp mặt dán bên ngoài được sử dụng và bởi độ cân bằng của chúng. Nhóm này đặt biệt phát triển, bởi với Timo Boll và Michael Maze là hai cầu thủ trẻ và thành công đã sử dụng chúng.

Hãy nói điều gì đó về nhóm các cốt vợt 5 lớp cổ điển.

Đây là những cốt vợt tự nhiên truyền thống của chúng tôi. Chúng tôi chỉ sử dụng các loại gỗ tốt nhất khác nhau ở những cốt vợt 5 lớp này, trong đó lớp bên ngoài chủ yếu là gỗ Limba. Mẹ của nhóm này là ADOLESCENT Nhật Bản, không được bán ở châu Âu. Đứa trẻ nổi tiếng nhất là PETER KORBEL OFF, được chơi rất nhiều ở châu Âu.

Một sự mới lạ cho mùa giải sắp tới là BALSA CARBO X5 OFF. Có phải Butterfly muốn đưa ra một cốt vợt Carbon hoàn toàn mới trên thị trường?

Vâng, chúng tôi đã đi đầu vào một hướng mới, bởi vì cho đến nay chúng tôi chưa bao giờ sử dụng gỗ Balsa trong bất kỳ cốt vợt nào của chúng tôi . Balsa là loại gỗ rất nhẹ, được sử dụng làm lớp trung tâm bên trong. Các lớp gỗ ngoài cùng cũng không quá cứng. Hai lớp Carbon s4 cung cấp độ cứng và sức mạnh cần thiết. Đây là điều đặc biệt về BALSA CARBO X5+ OFF : nó được trang bị một tốc độ bắt đầu rất lớn và nhiều cảm giác. Và nó rất nhẹ. Do đó nó thú vị cho bất cứ ai tìm kiếm các cú tấn công mạnh mẽ gần bàn.

Kiểu cán nào sẽ có sẵn với các cốt CREANGA CARBON OFF+ và BALSA CARBO X5+ ?

Như thường lệ, các hình thức cổ điển : cán đuôi cá, cán thẳng, và cán bầu ở giữa.

Xu hướng thiên về một hình thức cụ thể gần đây?

Nhìn chung có thể nói 50% là cán đuôi cá, 30% là cán bầu ở giữa và 20% là cán thẳng. Nhưng tỷ lệ này là khác nhau giữa các quốc gia. Ở Pháp và Đức loại cán đuôi cá được sử dụng rất nhiều. Vùng Scandinavia (Bắc Âu – ND) có một truyền thống tuyệt vời với cán thẳng. Và ở Trung Quốc thì có xu hướng thiên về kiểu cán bầu ở giữa. Hầu như các HLV luôn chậm về điều này và khuyên dùng một kiểu cán nào đó, hoặc nhìn vào những cầu thủ lớn mà chọn.

Cảm ơn ông rất nhiều, thưa ông Imamura

(Hết Phần 11 - Còn tiếp)
 
Last edited:

NTBB

Super Moderators
Kiến thức về trang thiết bị BB đến từ một chuyên gia của hãng Buterfly - tiếp

11WCBWP.jpg


Phần 12 . Các cốt vợt lớp OFF-

Vào đầu mùa giải 2005/2006 Butterfly giới thiệu ba cốt vợt mới thuộc lớp OFF-. Một lớp cốt vợt đang trở nên phổ biến và ngày càng thú vị hơn cho các cầu thủ trẻ. Werner Schlager, Michael Maze và Chuan Chi-Yuan đã trực tiếp tham gia vào sự phát triển các cốt vợt này. Họ đã cung cấp tên của họ cho các sản phẩm chất lượng hàng đầu mới này của Butterfly. Ngoài ra, đối với các chuyên gia phòng thủ còn có một sản phẩm sáng giá mới : cốt vợt của nghệ sỹ phòng thủ người Hàn Quốc và là cựu hạng nhì thế giới Joo Se Hyuk.

Trước khi các cốt vợt của chúng tôi được đưa vào thị trường, chúng được kiểm tra bởi những VĐV hàng đầu của chúng tôi và những VĐV mà các cây vợt này mang tên, một cách chi tiết.

Ông Imamura, Butterfly sẽ tung ra 3 cốt OFF- và 1 cốt DEF mới ra thị trường vào đầu mùa giải này 05/06. Trong khi chờ đợi có thể nói rằng lớp cốt OFF- đã vượt qua lớp ALL+?

Không nghi ngờ gì lớp OFF- đã trở thành phân khúc mạnh của chúng tôi trên thị trường. Tất nhiên các cốt lớp Allround- hoặc lớp DEF vẫn còn có nhu cầu, nhưng không như nó đã được mong muốn như 10 năm trước đây . Điều này rõ ràng là do sự thống trị của lối chơi tấn công, ngay cả ở phần lớn các cầu thủ nghiệp dư. Các cốt ALL và ALL+ vẫn còn phù hợp với những người mới bắt đầu chơi bóng hoặc những VĐV nâng cao, nhưng rõ ràng ngày càng nhiều trẻ em sử dụng cốt vợt tấn công. Do vậy sẽ là bình thường khi chúng ta tập trung ngày càng nhiều hơn vào nhóm OFF-.

Đặc tính của lớp OFF- là gì?

Chúng có các tính chất hỗ trợ cho việc tấn công như tốc độ, lực và xóay, nhưng vẫn cung cấp rất nhiều cảm giác và độ kiểm soát. Do đó chúng rất thích hợp cho các cầu thủ trẻ có các kỹ năng kỹ thuật tương ứng.

Chúng ta hãy có một cái nhìn chi tiết hơn về các cốt vợt mới được trình làng: CHUAN CHIH-YUAN OFF-, SCHLAGER PRECISION OFF- và MAZE OFF-. Hãy bắt đầu với cốt vợt thứ nhất. Có gì đặc biệt về nó ?

Cốt CHUAN CHIH-YUAN có cấu trúc truyền thống gồm 5 lớp gỗ tự nhiên với các loại gỗ cao cấp. Chuan Chih- Yuan đã giúp để phát triển cốt vợt này và bản thân đã chơi nó với Hier, Produkt, và Kleinschreibung. Nó rất nhẹ và hỗ trợ tốt cho lối chơi như Chuan. Các động tác đánh bóng cực nhanh và ngắn trên bàn có thể được thực hiện một cách hoàn hảo với nó. Cốt vợt tự nó không phải là quá nhanh, nhưng kết hợp với mút TACKIFIRE C của chúng tôi, một loại mút vô cùng xoáy và có tính năng động học cao, là một điều lý tưởng.

Phan 12 - cot OFF - h1.jpg


Tại sao TACKIFIRE C lại đặc biệt lý tưởng đối với cốt này ?

TACKIFIRE C là khá cứng và nặng. SRIVER hoặc BRYCE thì nhẹ hơn đáng kể. Vì vậy bạn nên kết hợp mút TACKIFIRE C với một cốt vợt nhẹ. Khi cốt vợy nhẹ và mềm thì nó sẽ sinh ra nhiều xoáy hơn. Cầu thủ hàng đầu của Trung Quốc hiếm khi chơi những cây vợt tấn công quá cứng, thậm chí cà các cốt vợt Carbon, vì những cây vợt này không phù hợp với những loại mút của Trung Quốc cứng, bám dính và nặng.

Phan 12 - cot OFF - h2.jpg


SCHLAGER PRECISION OFF- là một cốt vợt mới khác. Nó là sự kế thừa của SCHLAGER OFF cũ ?

Có, nó có thừa kế. Chúng tôi đã cải tiến nó về độ chính xác và kiểm soát. Điều này là ở trong truyền thống của cốt OFF của chúng tôi, không quá cứng và do đó vẫn cho rất nhiều cảm giác. Trong mọi trường hợp chúng rất tốt cho các cầu thủ trẻ tập luyện bài bản và sẵn sàng cải thiện khả năng tấn công của họ mà không thiếu độ kiểm soát. Đây là một cốt vợt rất thú vị, được phát triển với sự giúp đỡ của Werner Schlager.

Phan 12 - cot OFF - h3.jpg


Nhưng bản thân Werner Schlager lại chơi cốt SCHLAGER CARBON OFF+ ?

Tất nhiên anh ta đang chơi CARBON OFF+ của mình. Nhưng chỉ trong khi chờ đợi chúng tôi có ba cốt Werner Schlager trên thị trường, và Werner đã tích cực tham gia trong việc phát triển những cây vợt này. Về SCHLAGERT INSPIRE OFF mà anh vừa nói, anh có thể chơi với nó rất tốt.

Timo Boll cũng có ba môđen cốt vợt – 2 cốt OFF và 1 cốt ALL+. Timo chơi cây TIMO BOLL SPIRIT OFF, nhưng vẫn tham gia vào sự phát triển của 2 loại kia rất tốt.

Tất nhiên. Các VĐV không thích thú khi họ cung cấp tên của mình cho một cốt vợt chất lượng thấp. Trước khi các cốt vợt của chúng tôi được đưa vào thị trường, chúng đã được kiểm tra bởi những VĐV hàng đầu của chúng tôi và những người mà các cây vợt này mang tên một cách chi tiết. Điều này chúng tôi đảm bảo.


Một cốt vợt khác là MAZE PASSION OFF-, cốt vợt thứ 2 của Butterfly cho đến bây giờ sử dụng vật liệu Sợi Thủy tinh. Có gì đặc biệt về Sợi Thủy tinh?

Tương tự như Carbon, tốc độ và độ ổn định được tăng lên với việc sử dụng sợi thủy tinh. Nhưng so với Carbon thì Sợi Thủy tinh không cứng bằng và cho cảm giác tốt hơn. Cốt MAZE PASSION OFF- có 5 lớp, trogn đó có 2 lớp sợi thủy tinh, và tổng thể là khá nhẹ. Ở giữa là lớp gỗ cao cấp Abachi, tiếp theo là 2 lớp sợi thủy tinh. Sau khi chúng tôi đưa ra cốt sợi thủy tinh KREANGA AEROS OFF+ trong mùa giải trước, chúng tôi đã quan sát thấy rằng có ngày càng nhiều cầu thủ thích cảm giác của Sợi Thủy tinh! Cảm giác này khó mô tả bằng lời, người ta phải thử.

Phan 12 - cot OFF - h4.jpg


Chúng ta hãy nói về cốt vợt JOO SE HYUK DEF. Có gì đặc biệt về nó ?

Nó khá cứng và nhanh. Và nói về tốc độ - nhiều người nghĩ rằng cốt vợt DEF thường được chế tạo là cốt rất chậm. Điều này không đúng. Chúng được thiết kế để cung cấp rất nhiều độ kiểm soát trong khi lại rất thích hợp cho các cú đánh tấn công hiện đại. Bạn có thể không tin tôi, nhưng tôi biết những cầu thủ tấn công mà chơi cốt vợt phòng thủ. DEF – là cốt vợt không nhất thiết hàm ý là một cốt vợt chậm. Sự khác biệt chính là trong sự tăng lên của bề mặt vợt. Nhiều VĐV phòng thủ đã bắt đầu chơi với những cốt này và đã quen với chúng. Về mặt vậy lý thì không có bằng chứng cho mối liên hệ giữa kích thước của mặt vợt và sự an toàn của các cú đánh phòng thủ hoặc chất lượng của các cú đánh.

Ông Imamura, cuối cùng là một câu hỏi chung về các cốt vợt: Sự phát triển (về các loại cốt vợt – ND) sẽ dịch chuyển theo hướng nào nhiều hơn - công nghệ cao hay các thiết kế cổ điển?

Đây là điều khó nói. Trước tiên chúng ta sẽ phải chờ đợi sự thay đổi của ITTF liên quan đến keo tăng lực (bài phỏng vấn này thực hiện năm 2005 – ND). Nói chung có thể nói rằng xu thế là hướng tới các cốt vợt nhẹ hơn. Không khó để chế tạo các cốt nhẹ, nhưng để làm cho chúng đồng thời phải nhanh là một thách thức đặc biệt và luôn luôn là mục tiêu của chúng tôi. Việc chế tạo các cốt nhanh và nặng là điều đơn giản, bất cứ ai cũng có thể làm được.

(Hết Phần 12 - Còn tiếp)
 
Last edited:

Bình luận từ Facebook

Top