Lịch sử phát triển của môn Bóng Bàn

choctietlon

Super Moderators
SƠ LƯỢC LỊCH SỬ MÔN BÓNG BÀN VÀ CÁC KỸ THUẬT THI ĐẤU



I. Nguồn gốc và sự phát triển.

Bóng bàn là môn thể thao có lịch sử từ lâu đời và được rất nhiều người ưa thích. Về nguồn gốc của nó cho đến nay vẫn còn có nhiều quan điểm tranh luận rất khác nhau, song quan điểm nghiêng về môn bóng bàn xuất hiện sớm nhất tại đảo quốc sương mù.
Vào khoảng 1890, một VĐV Anh quốc mang từ Mỹ về một một quả bóng được chế tạo bằng Xenlulo rỗng bên trong và dùng làm bóng đánh trên bàn. Do loại bóng này có độ nảy lớn, khi đánh xuống bàn phát ra tiếng kêu “ping,pông...”nên có người đặt tên cho nó là “bóng ping pông”.
Đầu thế kỷ 20, môn bóng bàn được phát triển ở trung Âu và một số quốc gia khác ở châu Á, đặc biệt là Nhật Bản. Tiếp đó lan sang các nước ở châu Phi, châu Mỹ.... làm cho môn thể thao này phát triển mạnh trên phạm vi toàn Thế giới.

II. Sự thành lập liên đoàn bóng bàn Thế giới

Sau đại chiến TG lần thứ nhất 1918 các cuộc thi đấu và giao lưu môn bóng bàn ngày một tăng. Các dụng cụ bóng bàn ngày càng đổi mới làm cho kỹ thuật BB có cơ hội tiến bộ nhanh chóng. Trong bối cảnh như vậy cần thiết phải thành lập một tổ chức thể thao thống nhất mang tính Quốc tế để thuận tiện cho việc giao lưu rộng rãi và chính quy trên toàn Thế giới.
Với sự khởi xướng và vận động của Anh quốc và một số Quốc gia châu Âu khác, đến 12-1926 tại Luânđôn đã khai mạc Đại hội Liên đoàn BB Quốc tế lần I. Đại hôi đã thông qua nghị quyết và chương trình chính thức thành lập Liên đoàn các hội bóng bàn Quốc tế _ gọi tắt là Liên đoàn BB Quốc tế ITTF.

III. Các giai đoạn phát triển.

Nếu cuối thế kỷ 19 môn BB mới chỉ dừng lại ở một trò chơi giải trí thì đến thế kỷ 20 đã dần trơt thành một môn thể thao được thi đấu theo luật quy định.
Từ cuộc thi Vô địch BB Thế giới tổ chức 1926 đến nay sự phát triển của môn BB có thể tóm tắt như sau:

1. Thời kỳ châu Âu độc tôn.

BB bắt nguồn từ châu Âu rồi lan truyền khắp thế giới thì việc trước những năm 50 của thế kỷ 20 các VĐV châu Âu hầu như làm mưa làm gió trên các giải BB thế giới, giành phần lớn ngôi vị quán quân là điều dễ hiểu.
Năm 1902, người Mỹ phát minh ra mặt vợt cao su đã làm thay đổi phần lớn kỹ chiến thuật trong BB, do mặt cao su có độ đàn hồi, độ ma sát tốt hơn so với mặt vợt gỗ đã tạo ra sự thay đổi về độ xoáy và một số cách đánh mới.
Thời kỳ này, tư tưởng chủ đạo về kỹ chiến thuật của các VĐV là coi trọng phòng thủ, coi nhẹ tấn công, lấy phòng thủ chắc chắn làm nguyên tắc cơ bản, làm cho trận đấu kéo dài vô nghĩa, mât hứng thú của khán giả.
Để thay đổi tình trạng này, ITTF đã quyết định sửa đổi luật: tăng chiều rộng bàn bóng, hạ thấp chiều cao lưới, quy định thời gian thi đấu của mỗi ván đấu...
Biện pháp này đã cổ vũ và phát huy được lối đánh tấn công đẹp mắt, tăng nhanh nhịp độ thi đấu và trong chừng mực nào đó đã hạn chế được cách đánh phòng thủ tiêu cực.

2. Sự đột phá của Nhật Bản.

Đầu những năm 50 của thế kỷ 20, người ta đã cải tiến vợt và sử dụng mặt vợt mút xốp. Loại vợt này mặt vợt có tính đàn hồi và phản lực tốt, tốc độ bóng đánh đi tăng lên thuận lợi cho cách đánh tấn công. Năm 1952 lần đầu tiên VĐV Nhật Bản đã sử dụng loại vợt này trong thi đấu giải Vô địch Thế giới với cách đánh vụt bóng xa bàn kết hợp với di chuyển nhanh đã dễ dàng giành được 4 HCV và chuyển ưu thế môn BB về với châu Á.

3. Sự bung nổ của Trung Quốc.

Đầu những năm 50 của thế kỷ 20 Trung Quốc đã tham gia một số cuộc giải thi đấu lớn của Thế Giới. Nhờ việc tổng kết, tích lũy kinh nghiệm, nghiêm túc huấn luyện kỹ thuật cơ bản và thể lực nên trình độ các VĐV bóng bàn của họ nhanh chóng tiến bộ vượt bậc.
Năm 1959 TQ giành đựoc chức VĐ đơn nam Thế giới.
Năm 1961 họ giành chức VĐ đồng đọi nam.
Trong 3 giải Vô địch BB Thế giới liên tiếp: 26,27,28 các VĐV Trung Quốc giành được hơn nửa trên tổng số HCV.
Trong thi đấu Quốc tế, Trung Quốc giành ưu thế áp đảo và hiện nay họ đã trở thành một cường quốc Bóng bàn được cả Thế giới thừa nhận. (Phải chăng luật bóng bàn Quốc tế sửa đổi thay đổi từ séc 21 xuống 11 là để hạn chế sự thống trị của các VĐV Trung Quốc trên Thế giới_Đó là ý kiến riêng của tôi)

4. Cục diện đối kháng giữa châu Âu và châu Á.

Bước vào thập kỷ 70, các VĐV châu Âu qua nhiều năm thăm dò, tìm kiếm đã sáng tạo ra 2 cách đánh tiên tiến là: Lấy tấn công nhanh là chính kết hợp với cắt bóng và cách đánh lấy cắt bóng là chính kết hợp với tấn công nhanh. Kết hợp chặt chẽ độ xoáy với tốc độ, đồng thời sử dụng cách đánh tấn công gần bàn.
Sự học hỏi, giao lưu lẫn nhau giữa châu Âu và châu Á làm cho kỹ chiến thuật của môn BB đạt được trình độ cao mới và ngày càng hoàn thiện.
Hiện nay các nước như Thụy Điển, Hungari, Croatia, Nga, Đức, Áo... của châu Âu và các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên,... (và cả Việt Nam!!!!) của châu Á trình độ thực lực tương đương nhau. Do đó trong những trận đấu quan trọng rất khó đoán được ai thắng thua, và sự cạnh tranh giữa 2 châu lục càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.


IV. Các cuộc thi đấu bóng bàn Quốc tế lớn.

1. Giải Vô địch bóng bàn Thế giới.

Là cuộc thi đấu Quốc tế được tổ chức sớm nhất, có ảnh hưởng lứon nhất và trình độ cao nhất.
Từ giải Vô địch BB thế giới lần thứ nhất 1926 đến nay giải đã tổ chức được 42 lần, trong đó các nước châu Âu giành quyền đăng cai 32 lần.
Giải VĐTG có 10 nội dung, đó là:
- Đồng đội nam.
- Đồng đội nữ.
- Đơn nam.
- Đơn nữ.
- Đôi nam.
- Đôi nữ.
- Đôi nam nữ.
- Thi đấu các cây vợt xuất sắc.
- Thi đấu an ủi, động viên (đơn nam, đơn nữ không có thưởng)

2. Cúp bóng bàn Thế giới.

Là cuộc thi đấu quan trọng do Liên đoàn BB Thế giới tổ chức, mỗi năm 1 lần.
Cúp này quy định chỉ có 16 VĐV tham gia thi đấu. Tư cách VĐV được tham gia đó là:
- Các VĐV ưu tú Thế giới do Liên đoàn công bố.
- Các VĐV vô địch đánh nội dung đơn của các châu lục.
- Vô địch đơn của Liên đoàn BB nước đăng cai tổ chức.
Thể thức thi đấu chỉ tiến hành một nội dung duy nhất là đánh đơn.

3. Bóng bàn trong Đại hội Olimpic

Tại các kỳ Đại hội Olimpic, môn BB là một trong các nội dung thi đấu chính thức, do đó các nước tham gia đều có thể đăng ký tham gia tranh chức Vô địch của Đại hội về môn BB.

4. Giải Vô địch bóng bàn châu Á và Cúp bóng bàn châu Á.

Đây là 2 cuộc thi đấu bóng bàn quan trọng nhất của khu vực châu Á
- Giải Vô địch bóng bàn châu Á hình thành từ năm 1972 và cứ 2 năm tổ chức 1 lần.
- Cúp bóng bàn châu Á bắt đầu năm 1983 và mỗi năm tổ chức 1 lần. Cúp này được tổ chức theo phương thức Cúp bóng bàn Thế giới, chỉ thi đấu 1 nội dung đơn.
________________________________________
 
Last edited:

choctietlon

Super Moderators
CHƯƠNG 2. TRI THỨC CƠ BẢN CỦA MÔN BÓNG BÀN.


I. Bóng bàn.

Quả bóng bàn được làm từ chất dẻo, bên trong rỗng và có dạng hình cầu. Đường kính của bóng tiêu chuẩn là 40mm, trọng lượng 2,5g. Trong thi đấu chính thức có yêu cầu nhất định đối với lực dàn hồi và màu sắc của quả bóng.

II. Bàn bóng.

Bàn bóng bàn hình chữ nhật, dài 2,74m, rộng 1,525m, chiều cao so với mặt đất 0,76m, mặt bàn phải song song so với mặt phẳng nằm ngang.
Vật liệu chế tạo nói chung là bằng gỗ, có thể dùng bằng các nguyên liệu khác nhưng tiêu chuẩn về tính đàn hồi phải bắt buộc như nhau, nghĩa là phải đảm bảo khi quả bóng tiêu chuẩn rơi từ độ cao 0,3m xuống mặt bàn phải nảy lên được độ cao 0,23m.

III. Lưới bóng bàn.

Độ cao tiêu chuẩn của lưới bóng bàn là 12,25cm và vuông góc với mặt bàn, lưới chia bàn bóng bàn thành 2 nửa bằng nhau.

IV. Vợt bóng bàn

Vợt bóng bàn gồm có 2 phần:
- Phần cốt vợt: thường được làm bằng gỗ hoặcbằng các chất liệu tổng hợp (ví dụ như cốt vợt Cacbon mà hiện nay rất nhiều người đang sử dụng).
- Mặt vợt: Được dán một lớp mút gai thuận hoặc ngược tùy vào sở thích và sở trường kỹ chiến thuật của mỗi VĐV bóng bàn.
Kích thước, hình dáng và trọng lượng của vợt bóng bàn không hạn chế.
Hiện nay có 2 loại vợt bóng bàn cơ bản: Vợt dọc và vợt ngang. Các VĐV bóng bàn dựa và khả năng kỹ chiến thuật và cách đánh khác nhau mà lựa chọn sử dụng vợt có tính năng khác nhau. Vợt mút gai thuận (gai quay ra ngoài) có đặc điểm là tính đàn hồi tốt, đánh bóng chắc và tốc độ nhanh rất thích hợp cho những VĐV có lối đánh tấn công nhanh gần bàn. Còn vợt mút gai ngược có đặc điểm tạo độ xoáy rất cao khi đánh bóng rất thích hợp cho những VĐV líp bóng đường cong và cắt bóng.

V. Sân thi đấu.

Sân thi đấu bóng bàn có hình chữ nhật, chiều dài 14m, chiều rộng tối thiểu 7m, chiều cao của dàn đèn chiếu tối thiểu 4m. Trong thi đấu chính thức, quanh sân thi đấu không được có nguồn sáng chói, đồng thời mặt sàn không được phủ màu trắng tránh ảnh hưởng tới khả năng thi đấu của VĐV.

VI. Thời gian đánh bóng

Thời gian đánh bóng là chỉ sự sớm hay muộn của vợt khi đánh vào bóng, dựa vào các giai đoạn bay khác nhau của bóng khi đối phương đánh sang bàn của mình sau khi bật lên được gọi là thời kỳ đầu bóng đi lên, thời kỳ cuối bóng đi lên, thời kỳ cao điểm, thời kỳ đầu bóng đi xuống, thời kỳ cuối bóng đi xuống (bóng chạm mặt sàn).

VII. Góc độ mặt vợt.

Góc độ mặt vợt là chỉ góc hình thành bởi mặt vợt và mặt bàn bóng. Trong thi đấu VĐV muốn biến đổi góc độ mặt vợt để đỡ hoặc đánh trả đối phương nhằm tạo ra đường bóng có tính năng khác nhau nên góc độ mặt vợt thường xuyên biến đổi.
+ Góc giữa vợt với mặt bàn <30 độ: Mặt vợt nghiêng trước.
+ Góc giữa vợt với mặt bàn 30-:-45 độ: Mặt vợt hơi nghiêng trước.
+ Góc giữa vợt với mặt bàn =90 độ: Mặt vợt thẳng đứng.
+ Góc giữa vợt với mặt bàn =120 độ: Mặt vợt hơi ngửa sau.
+ Góc giữa vợt với mặt bàn =150 độ: Mặt vợt ngửa sau.

VIII. Điểm tiếp xúc khi đánh bóng.

Là chỉ sự tiếp xúc của vợt vào bóng khi đánh bóng. Cứ hình dung mặt cắt ngang qua trái bóng bàn giống như mặt của cái đồng hồ thì từ số 12 đến số 1 gọi là phần trên bóng, từ số 1 đến số 2 gọi là phần trên giữa bóng, số 3 là giữa bóng, số 4 đến số 5 giữa dưới bóng và số 6 là phần dưới bóng.
IX. Các thao tác kỹ thuật trong đánh bóng bóng bàn.
Mặc dù động tác kỹ thuật và phương pháp đánh bóng bàn rất đa dạng và phong phú, nhưng về cấu trúc động tác lại có những quy luật chung bao gồm các động tác sau:
- Lựa chọn vị trí trước khi đánh bóng.
- Đưa vợt và vung vợt đón bóng.
- Quyết định thời điểm đánh vào bóng.
- Vị trí tiếp xúc vào bóng, góc độ mặt vợt, phương hướng động tác vung vợt khi đánh bóng.
- Động tác vung vợt theo đà sau khi đánh bóng và trở về tư thế ban đầu.

X. Độ xoáy của bóng.

Trong quá trình bay nếu bóng đánh đi xoay với tốc độ tương đối lớn và có tính chất xoay rõ rệt thì được gọi là bóng xoáy.
Độ xoáy của bóng khi đánh là một trong những nhân tố chủ yếu góp phần giành thắng lợi của môn bóng bàn. Các loại kỹ thuật chủ yếu của môn bóng bàn hiện đại đều không tách rời khỏi bóng xoáy. Vì vậy muốn đánh bóng bàn tốt thì cần phải nghiên cứu thật kỹ nguyên lý xoáy của bóng trong môn bóng bàn.

1. Cách tạo đường bóng đi xoáy.

Trong thời điểm khi mặt vợt tiếp xúc với bóng, nếu như phương hướng đánh của vợt đi dúng qua tâm bóng thì vợt tác dụng vào bóng 1 lực F làm bóng bị đánh đi không có độ xoáy.
Nếu như phương hướng đánh của vợt không đi đúng qua tâm bóng thì ngoài lực tác động vào bóng F còn tạo ra một lực ma sát với bóng làm cho bóng khi bật khỏi vợt có độ xoáy.

2. Các loại xoáy chủ yếu.

Theo thói quen người ta chia các loại xoáy cơ bản của bóng thành 3 loại chính: Xoáy lên, xoáy xuống và xoáy ngang.

a. Xoáy lên.

Khi vợt tiếp xúc vào bóng, ngoài lực ra trước còn có lực ma sát của vợt với bóng theo hướng từ dưới lên trên làm cho bóng đi có hướng xoáy lên trên.

b. Xoáy xuống.

Khi vợt tiếp xúc vào bóng, ngoài lực ra trước còn có lực ma sát của vợt với bóng theo hướng từ trên xuống dưới làm cho bóng đi có hướng xoáy xuống dưới.

c. Xoáy sang bên (xoáy nghiêng).

Khi vợt tiếp xúc vào bóng, ngoài lực ra trước còn có lực ma sát của vợt với bóng theo hướng sang trái hoặc sang phải làm cho bóng khi bay đi có xu hướng xoay sang bên. Trong đó lực ma sát được phát sinh ra giữa vợt và bóng có hướng sang trái sẽ làm cho bóng xoáy bên trái và ngược lại.

d. Xoáy nghiêng lên, xoáy nghiêng xuống

Trong thực tế đánh bóng thường còn ma sát vào phía trên cạnh bên hoặc phía dưới cạnh bên của bóng. Nếu ma sát phía trên cạnh bên thì bóng xoáy nghiêng lên trên, nếu ma sát vào phía trên cạnh bên trái bóng sẽ tạo ra xoáy nghiêng lên bên trái, …tương tự như vậy có thể tạo ra xoáy xuống bên phải, xoáy lên bên phải, xoáy xuống bên trái.

e. Xoáy thuận và xoáy nghịch.

Đây là 2 loại xoáy khó xuất hiện cũng như các VĐV rất khó tạo ra được trong thực tế tập luyện và thi đấu. Phương hướng xoay của bóng nếu nhìn chính diện từ đằng sau nếu quay xuôi kim đồng hồ thì gọi là xoáy thuận, ngược lại là xoáy nghịch.
Mặc dầu hai loại đường bóng xoáy này không dễ xuất hiện nhưng lại thưòng xuất hiện hỗn hợp với các đường bóng xoáy nghiêng, xoáy lên, xoáy lên bên cạnh, xoáy xuống bên cạnh. Trong đường xoáy nghiêng, xoáy lên, xoáy xuống bên cạnh thường có thành phần xoáy thuận và xoáy nghịch. Vì vậy trong bóng bàn hiện đại, đường xoáy của bóng có thể phân nhỏ làm 26 loại

3. Tính chất của bóng xoáy.

Khi có độ xoáy, bóng sẽ bật trên bàn và bật trở lại từ mặt vợt của đối phương khác hẳn so với khi không xoáy

a. Đặc điểm xoay của bóng xoáy.

Bóng không xoáy khi bay chỉ chịu phản lực là lực cản chính diện của không khí nên tốc độ bay giảm dần. Còn bóng xoáy khi bay làm cho khong khí xung quanh nó hình thành dòng hoàn lưu (xoáy tròn), như vậy bóng xoáy trong khi bay ngoài lực cản chính diện của không khí còn chịu một lực vuông góc với hướng bay của bóng (cái này thì các bạn giỏi môn vật lý có thể diễn tả một cách chính xác và dễ hiểu hơn).

* Đặc điểm bay của bóng xoáy lên.

Khi bóng xoáy lên trong lúc bay phương của áp lực bên cạnh có hướng đi xuống dưới nên bóng có đặc điểm tăng nhanh độ rơi xuống, tăng độ cong của đường vòng cung, rút ngắn cự ly của bóng đánh ra, giảm bớt thời gian bay trên không của bóng. Vì vậy tốc độ bóng xoáy lên nhanh, độ cong lớn, tỷ lệ bóng tốt cao.

* Đặc điểm bay của bóng xoáy xuống.

Khi bóng bay xuống thì áp lực bên cạnh của dòng khí lưu có hướng đi lên. Vì vật đặc điểm bay của loại bóng này là giảm tốc độ rơi xuống của bóng, giảm độ vòng cung, kéo dài thời gian bay của bóng làm tăng cự ly của bóng đánh ra. Do đường vòng cung của bóng xoáy xuống không tốt, khi tốc độ nhanh dễ bay ra ngoài bàn, nhưng bóng xoáy xuống có tốc độ chậm thì lại tương đối vững và chắc bóng.

* Đặc điểm bay của bóng xoay nghiêng.

Áp lực bên cạnh của dòng khí lưu khi bóng xoáy nghiêng bên trái sẽ sang bên phải và ngược lại.

* Đặc điểm bay của bóng xoáy nghiêng lên và xoáy nghiêng xuống.

Do bóng xoáy nghiêng lên, xuống là tổng hợp của xoáy nghiêng với xoáy lên hoặc xoáy xuống. Do vậy trong khi bay bóng vừa có đặc điểm của bóng xoáy nghiêng vừa có đặc điểm của bóng xoáy lên hoặc xoáy xuống.

b. Đặc điểm bật bàn của bóng xoáy.

* Đặc điểm bật bàn của bóng xoáy lên.

Khi rơi chạm mặt bàn, do tác dụng lăn ra trước của thân bóng làm cho tốc độ sau khi bật lên tăng nhanh và có xu hướng lao ra trước. Cường độ xoáy lên của bóng càng lớn thì xu hướng lao trước càng nhanh và ngược lại.

* Đặc điểm bật bàn của bóng xoáy xuống.

Khi chạm mặt bàn do tác dụng của than bóng lăn ra sau nên tốc độ của bóng sau khi bật lên sẽ chậm lại, thiếu sức lao trước và thường làm cho đối phương khó có thể dùng sức mạnh để đánh vào bóng được.

* Đặc điểm bật bàn của bóng xoáy nghiêng.

Khi chạm mặt bàn, do điểm đầu trục quay của bóng tiếp xúc với mặt bàn không có tác dụng lăn nên đặc điểm bật bàn giống với bóng không xoáy. Nhưng trong thực tế đánh bóng, bóng xoáy nghiêng thường có lại có cả thành phần xoáy thuận hoặc xoáy nghịch, do xoáy thận hay xoáy nghịch thường vị trí có tốc độ xoáy lớn nhất ngoài thân bóng tiếp xúc với mặt bàn nên bóng sau khi bật bàn có độ nghiêng về một bên rõ rệt, bóng xoáy thuận sau khi bật bàn sẽ lao sang phải, bóng xoáy nghịch sau khi bật bàn sẽ lao sang trái.
c. Đặc điểm bật trở lại trên mặt vợt của bóng xoáy.

* Đặc điểm bật trở lại trên mặt vợt của bóng xoáy lên.

Khi tiếp xúc với mặt vợt, bóng xoáy lên có xu hướng lăn lên phía trên và bật trở lại theo hướng lên trên làm cho bóng đánh trả dễ bị quá cao, thậm chí bay khỏi bàn. Vì vậy khi dùng các phương pháp đánh trả bóng xoáy lên đòi hỏi phải điều chỉnh góc độ vợt đồng thời tăng sức mạnh xuống dưới để triệt tiêu lực bật lên trên của bóng xoáy lên.

* Đặc điểm bật trở lại trên mặt vợt của bóng xoáy nghiêng.

Khi tiếp xúc với mặt vợt bóng xoáy xuống có xu hướng lăn xuống phía dưới và bật trở lại theo hướng xuống dưới, khi đánh trả dễ bị chúc lưới. Vì vậy khi dùng các phương pháp đánh trả bóng xoáy xuống đòi hỏi phải điều chình góc độ mặt vợt đồng thời tăng lực lên trên để triệt tiêu lực chúc xuống dưới của bóng xoáy xuống.

* Đặc điểm bật trở lại trên mặt vợt của bóng xoáy nghiêng.

Khi tiếp xúc với mặt vợt của đối phương bóng xoáy nghiêng có xu hướng lăn về 1 phía (phải hoặc trái) dễ làm cho đối phương đỡ bóng bắn lệch ra ngoài bàn.
Do vậy khi đánh trả bóng xoáy nghiêng cần điều chỉnh mặt vợt nghiêng về phía ngược lại với hướng lệch sang bên của bóng xoáy nghiêng đồng thời tăng thích đáng lực ngược hướng này để triệt tiêu lực bắn lệch sang một phía của bóng xoáy nghiêng.

* Đặc điểm bật trở lại của bóng xoáy nghiêng xoáy lên và xoáy nghiêng xoáy xuống.

Bằng cách phân tích tương tự như trên, bóng xoáy nghiêng xoáy lên bên trái khi tiếp xúc với mặt vợt cũng bắn lệch lên trên phía bên trái.
Cũng cách phân tích như trên các bạn cũng luận ra được đặc điểm bật trở lại trên vợt đối với các loại bóng xoáy khác thôi.

4. Phân khu vực trên bề mặt bóng xoáy

Khi bóng xoáy, mức độ bật lên khác thường trên mặt bàn và mức độ bắn lệch sang bên trên mặt vợt đều tỷ lệ thuận với tốc độ xoáy ở vị trí bóng tiếp xúc với mặt bàn và mặt vợt.
Trên quả bóng xoáy được phân làm 4 khu vực:
+ Khu vực xoáy nhanh nhất là khu vực mà ở đó có tốc độ quay là lớn nhất, nếu bóng xoáy nghiêng tiếp xúc với mặt bàn ở khu vực này sẽ bật sang 1 bên với tốc độ đột ngột và nhanh nhất.
Khi đánh trả bóng xoáy nếu đánh vào khu vực này thì dễ bị “ăn xoáy” nhất.
+ Khu vực xoáy nhanh là khu vực mà ở đó tốc độ quay nhanh nhưng chậm hơn so với khu vực xoáy nhanh nhất. Nếu bóng xoáy nghiêng tiếp xúc với mặt bàn ở khu vực này thì bóng sẽ bật sang bên rõ rệt.
Khi đánh trả bóng xoáy, nếu đánh vào khu vực này vẫn bị ăn xoáy như thường.
+ Khu vực xoáy yếu: Là khu vực mà ở đó tốc độ quay tương đối nhỏ. Nếu bóng xoáy tiếp xúc với mặt bàn ở khu vực này thì hiện tượng bóng bật sang bên không rõ lắm.
+ Khu vực xoáy rất yếu (chậm): Là khu vực mà ở đó bóng xoáy với tốc độ nhỏ, nếu bóng xoáy nghiêng tiếp xúc với mặt bàn ở khu vực này thì bóng sẽ bật sang bên không rõ ràng. Khi đánh trả nếu có khả năng thì tốt nhất là đánh vào khu vực này để không bị tác dụng của xoáy.

XI. TỐC ĐỘ CỦA BÓNG.

Tốc độ đánh bóng nhanh là một trong những nhân tố chủ yếu để giành thắng lợi trong môn bóng bàn, tạo cơ hội trong đập vụt tấn công đưa đối phương vào thế bị động để giành điểm trực tiếp.
Trong vật lý, tốc độ chuyển động của vật thể được xác định bằng quãng đường đi trong 1 đơn vị thời gian. Như vậy trong 1 đơn vị thời gian mà quãng đường đi được của vật thể càng dài thì tốc độ của nó càng nhanh và ngược lại.
Tốc độ trong môn bóng bàn chỉ mức độ nhanh chậm về thời gian bay của bóng và thời gian xen kẽ giữa các lần đánh bóng. Thời gian bay của bóng trên không và thời gian giữa các lần đánh bóng được gọi là tốc độ nhanh ví dụ: đẩy bóng nhanh, vẩy bóng nhan, tấn công nhanh…
Vì vậy muốn nâng cao tốc độ trong bóng bàn cần thiết phải rút ngắn thời gian giữa các lần đánh bóng, thời gian bay của bóng sau khi bóng đánh khỏi tay sang bàn đối phương.

X. SỨC MẠNH ĐÁNH BÓNG

Sức mạnh đánh bóng là một trong những nhân tố chủ yếu góp phần giành thắng lợi trong môn bóng bàn. VĐV có sức mạnh đánh bóng tốt thì khi gặp cư hội thuận lợi thì chỉ cần một lần dứt điểm đã giải quyết được vấn đề, ngược lại VĐV có sức mạnh đánh bóng yếu khi gặp cơ hội thì phải tấn công liền mấy quả cũng chưa chắc giành được chủ động đành bỏ lỡ cơ hội. Nói chung sử dụng tốt sức mạnh trong đánh bóng có thể tạo sức uy hiếp lớn với đối phương, dễ chiếm ưu thế trong đánh bóng. Trung Quốc là nước từ trước đến giờ luôn luôn coi trọng sức mạnh trong đánh bóng và coi đó như một tiêu chí để nghiên cứu tìm hiểu, phân loại và đánh giá trình độ cao thấp của các VĐV trong kỹ thuật đánh bóng.
Tốc độ và sức mạnh trong đánh bóng chủ yếu được quyết định bởi tốc độ ra vợt ở thời điểm đánh vào bóng lớn hay nhỏ (xung lực). Vì vậy muốn có tốc độ tốt trong đánh bóng cần phải nâng cao các tố chất thể lực như: tố chất tốc độ, tố chất sức mạnh đặc biệt là xung lực khi tiếp xúc vào bóng và năng lực phối hợp nhịp nhàng của toàn thân.

XIII. ĐƯỜNG BAY VÒNG CUNG CỦA BÓNG.

Trong quá trình bay trong không khí, do bóng chịu tác động của lực hút trọng trường mà tạo thành 1 đường bay vòng cung, ta gọi đó là đường bay vòng cung của bóng.
Do vị trí tiếp xúc khi đánh vào bóng phần lớn thấp hơn mặt lưới nên đường bay vòng cung của bóng tốt phải đảm bảo điều kiện để bóng bay qua lưới và rơi xuống bàn của đối phương với độ cao và điểm rơi thích hợp, đồng thời phải tăng được độ khó khi đánh trả.
Độ cao đường vòng cung của bóng cần phải cao hơn mặt lưới nhưng không được quá cao mà tạo điều kiện thuận lợi cho đối phương tấn công.
Độ cao vòng cung của đường bóng được quyết định bởi hướng đánh và tốc độ bóng sau khi rời khỏi mặt vợt. Tốc độ bay của bóng càng nhanh thì độ cong của đường bay càng nhỏ, đường bắn thẳng càng ngắn và ngược lại. Trong bóng bàn đường bắn thẳng của bóng không nên quá dài hoặc quá ngắn, nếu quá dài bóng dễ bay ra ngoài bàn, quá ngắn bóng dễ không qua lưới. Điều cần lưu ý là bóng xoáy lên có thể làm cho độ cong của đường bay vòng cung lớn thêm, đường bắn thẳng ngắn lại còn bóng xoáy xuống thì ngược lại.

XIV. ĐƯỜNG ĐÁNH BÓNG.

Đường đánh bóng của bóng bàn chỉ đường bay của bóng trên không so với mặt bàn bóng. Theo thói quen lấy phương hướng và vị trí đứng giữa bàn bóng của người đánh bóng làm chuẩn, có thể chia làm 5 đường đánh bóng cơ bản: Đường chéo trái, đường thẳng trái, đường trung lộ, đường chéo phải và đường thẳng phải.
Trong thi đấu nếu VĐV giỏi về việc thay đổi đường bóng có thể điều động được đối phương phải chạy liên tục sang trái, sang phải để đỡ bóng, đồng thời buộc đối phương phải đánh bóng thay đổi thuận tay và trái tay tạo cơ hội chủ động trong dứt điểm.
XV. ĐIỂM RƠI CỦA BÓNG.
Điểm rơi của bóng là chỉ điểm tiếp xúc của bóng trên mặt bàn bóng. Trong thi đấu nếu vận dụng tốt đường bóng, chủ động điều chỉnh hợp lý điểm rơi của bóng có thể tăng thêm độ khó buộc đối phương phải sang trái, sang phải, lên, xuống trước sau phá vỡ ý đồ chiến thuật của đối phương.
 

choctietlon

Super Moderators
CHƯƠNG 3. KỸ THUẬT CHỦ YẾU CỦA MÔN BÓNG BÀN


I. Kỹ thuật cầm vợt.

1. Tầm quan trọng của cầm vợt.

Kỹ thuật cầm vợt là một trong những kỹ thuật nhập môn của VĐV bóng bàn. Kỹ thuật cầm vợt tốt có thể nâng cao tính linh hoạt của bàn tay, cánh tay và cổ tay tạo cơ sở tốt cho việc nâng cao kỹ thuật sau này.
Ngược lại nếu kỹ thuật cầm vợt không tốt thì không chỉ ảnh hưởng tới linh hoạt của bàn tay, cổ tay mà còn làm cho động tác đánh bóng không chuẩn xác ảnh hưởng đến việc nâng cao kỹ thuật và dùng sức khi đánh bóng.
Chính vì vậy những AE mới bắt đầu học đánh bóng bàn trước tiên phải học tốt kỹ thuật cầm vợt.

2. Phương pháp cầm vợt.

Có 2 phương pháp cầm vợt chính đó là: Cầm vợt dọc và cầm vợt ngang.
Cầm vợt dọc có ưu điểm là đầy chặn trái tay rất tốt, thuận tiện cho việc đẩy trái công phải, tấn công bóng trong bàn tương đối linh hoạt. Bởi vậy phần lớn mọi người chỉ sử dụng đánh bóng mặt thuận của vợt dọc. Cách cầm vợt này trong khi đánh bóng có thể thực hiện luân phiên giữa thuận tay và trái tay nhanh.Đây là phương pháp cầm vợt truyền thống của Trung Quốc và Nhật Bản.
Cách cầm vợt ngang thích hợp công bóng hai mặt, cắt bóng, líp bóng vòng cung trái tay, phạm vi quán xuyến lớn. Đây là phương pháp cầm vợt truyền thống của châu Âu.

2.1. Cách cầm vợt dọc.

Giống như khi ta cầm bút viết vậy, ngón cái và ngón trỏ tạo thành hình gọng kìm kẹp chặt vơt, 3 ngón còn lạicong tự nhiên và ép sát vào mặt sau của vợt.

* Cách cầm vợt dọc loại hình tấn công nhanh

Làm cho chuôi vợt áp sát trên ngàm tay (nằm giữa ngón cái và ngón trỏ, sát với bàn tay) cạnh phải của chuôi vợt áp sát vung đốt thứ 3 của ngón trỏ, đốt thứ nhất của ngón cái áp chặt vào vai trái của vợt, đốt thứ 2 của ngón trỏ áp chặt vào vai phải vợt. Khớp thứ nhất của ngón cái và đốt thứ nhất, thứ hai của ngón trỏ tạo thành hình gọng kìm quặp ra phía trước của vợt. Khoảng cách giữa đầu ngón trỏ và ngón cái khoảng 1 -:- 2 cm. Ba ngón còn lại gập tự nhiên chồng lên nhau và chống giữ phía sau vợt bằng đốt thứ nhất và thứ hai của ngón giữa.
Phương pháp caamf vợt này thích hợp cho lối đánh tấn công nhanh bằng vợt mút dán thuận, độ linh hoạt của cổ tay và ngón tay tốt hơn hẳn cách cầm vợt ngang. Khi tấn công thuận tay, ngón tay cái ấn vợt, ngón trỏ thả lỏng, ngón út và ngón vô danh hỗ trợ ngón giữa chống giữ vợt phát lực. Khi đẩy chặn trái tay, ngón trỏ ấn vợt, ngón cái thả lỏng, ngón út và ngón vô danh hỗ trợ ngón giữa chống vợt và phát lực

* Cách cầm vợt dọc loại hình líp bóng.

Làm cho chuôi vợt áp sát vào ngàm tay, đốt thứ nhất ngón cái và thứ hai ngón trỏ ép khóa vai vợt. Đốt thứ nhất ngón cái áp chặt cạnh trái chuôi vợt ở phía trước, ngón trỏ quặp chặt chuôi vợt và cùng với ngón cái trạo thành vòng tròn, 3 ngón còn lại hơi duỗi thẳng tự nhiên chồng lên nhau ở sau vợt do đốt thứ nhất của ngón giữa chống giữ sau vợt.
Cầm vợt loại hình này thích hợp với lối đánh loại hình líp bóng mặt mút ngược, loại hình cầm vợt này dễ cố định, có thể làm cho cẳng tay, bàn tay, cổ tay với bóng tạo thành một đường thẳng, phát huy đầy đủ sức mạnh cổ tay và cẳng tay. Khi líp bóng thuận tay, ngón cái dùng sức ép vào vợt, ngón vô danh và ngón út phối hợp với ngón giữa chống giữ vợt. Khi đẩy chặn bóng, ngón cái thả lỏng, ngón trỏ dùng lực ép vào mặt vợt, ngón vô danh và ngón út cùng hỗ trợ ngón giữa dùng sức chống giữ vợt.

* Cách cầm vợt dọc cắt bóng.

Ngón cái cong áp sát bên trái chuôi vợt hơi dùng sức ấn xuống, 4 ngón còn lại hơi xòe ra và duỗi thẳng tự nhiên đỡ phía mặt sau của vợt.
Cách cầm vợt này thích hợp dùng cho cắt bóng, phạm vi quán xuyến bóng thuận tay và trái tay đều tương đối rộng.
Khi cắt bóng thuận tay, đưa vợt hơi nghiêng ra sau giảm thiểu lực lao trước của bóng đến, khi cắt bóng trái tay 4 ngón phía sau vợt hơi quặp lại, đầu tiên làm cho chuôi vợt chúc xuống dưới, sau đó vung vợt cắt bóng. Khi tấn công hoặc đẩy chặn bóng cần di chuyển ngón trỏ đến cạnh sau của chuôi vợt đổi thành phương pháp cầm vợt tấn công.

2.2. Cách cầm vợt ngang.

Ngón cái cong tự nhiên áp sát chuôi vợt ở phía trước, ngón trỏ ở sau, 3 ngón còn lại cầm lấy chuôi vợt một cách tự nhiên.

* Cách cầm vợt ngang loại hình cắt bóng tấn công.

Ngón cái ở phía trước cong tự nhiên áp sát chuôi vợt, ngón trỏ sau vợt duỗi chếch tự nhiên áp sát mặt vợt, vai vợt đưa nhẹ vào hổ khẩu tay và đốt thứ 2 của ngón giữa. Các ngón khác nắm chuôi vợt một cách tự nhiên.
Cách cầm vợt loại này thích hợp nhất đối với cách đánh loại hình kết hợp cắt bóng với tấn công. Cách cầm vợt đơn giản, mặc dù so với cách cầm vợt dọc thì tính linh hoạt của bàn tay, ngón tay, cổ tay tuy có bị hạn chế nhất định nhưng dễ phát huy tác dụng xoay ngoài và xoay trong của cánh tay và cổ tay.
Khi tấn công bóng thuận tay, ngón trỏ có thể hơi di động lên trên tạo thuận lợi cho ép giữ vợt và phát lực. Khi tấn công bóng trái tay và tạt nhanh, ngón cái có thể di chuyển lên trên 1 chút, như vậy sẽ có lợi cho ép vợt và phát lực.
Khi cắt bóng thuận trái tay, vị trí của các ngón tay về cơ bản không thay đổi.

* Cách cầm vợt ngang loại hình tấn công (đập, vụt)

Ngón cái duỗi chếch tự nhiên áp sát mặt vợt, ngón trỏ duỗi chếch tự nhiên áp sát phía sau vợt, dùng đốt thứ nhất của ngón trỏ chống giữ vợt, đầu vợt hơi chếch lên trên.
Cách cầm vợt này thích hợp nhất với cách đánh loại hình líp bóng và tấn công nhanh. Nếu so sánh với cách cầm vợt loại hình cắt bóng tấn công thì cách cầm vợt này tương đối ổn định.
Lưu ý là trong cách cầm vợt ngang lại có thể phân ra thành cầm sâu và cầm nông. Người cầm vợt mà hổ khẩu tay nằm sát vai vợt là cầm sâu và ngược lại là cầm nông.
Ưu điểm của cầm nông là cổ tay và bàn tay linh hoạt, thuận lợi hơn cho xử lý bóng trong bàn (bóng ngắn), nghĩa là có thể dùng líp bóng, cũng có thể dùng phương pháp gõ vẩy ngắn để đánh trả. Khi tấn công dễ bị đánh bóng thấp, kết hợp phải trái tương đối linh hoạt. Khi cắt, gò bóng, phát bóng dễ đánh bóng xoáy biến đổi, đối phương khó mà phân biệt được. Nhưng có nhược điểm là khi tấn công toàn bộ lực tập trung vào bàn tay nên có ảnh hưởng nhất định tới khả năng phát lực. Khi cắt bóng mặt vợt không dễ dàng cố đinh được nên khó khống chế động vòng cung của cắt bóng.
Ưu điểm của cách cách cầm vợt sâu là góc độ mặt vợt tương đối cố định, khi tấn công phát lực được tập trung nên có lợi cho việc tăng thêm sức mạnh đánh bóng, líp bóng cũng tương đối xoáy, cắt bóng cũng dễ khống chế và tạo được độ xoáy tương đối. Nhược điểm là do cầm vợt chặt, cổ tay không linh hoạt. Khi đối công tính linh hoạt phối hợp phải, trái hơi kém, xử lý bóng trong bàn tương đối khó khăn, biến đổi xoáy dễ bị phát hiện và đối phó.

3. Những vấn đề cần lưu ý trong cách cầm vợt.

- Với những AE mới tập bóng bàn thì phương pháp cầm vợt cần ổn định, không nên thay đổi một cách quá dễ dàng cách cầm vợt để đảm bảo cho động tác đánh bóng ổn định.
- Cầm vợt không nên quá chặt hoặc quá lỏng , cầm quá chặt sẽ ảnh hưởng tới tính linh hoạt của cổ tay và ngón tay khi đánh bóng, quá lỏng sẽ ảnh hưởng tới sức mạnh đánh bóng và tỷ lệ bóng vào bàn suy giảm.
- Dựa vào sự yêu thích và đặc điểm kỹ thuật của bản thân mà chọn phương pháp cầm vợt thích hợp. Ví dụ thích đánh tấn công gần bàn nên chọn cầm vợt dọc, thích đánh líp bóng thuận, trái tay thì tốt nhất là chọn cách cầm vợt ngang… Tốt hơn hết nếu có điều kiện AE mới học chơi bóng bàn khi chọn và học cách cầm vợt nên có sự chỉ dẫn của HLV bóng bàn.

4. Không thể coi nhẹ tác dụng của tay không cầm vợt.

Khi nghiên cứu về phương pháp cầm vợt thì không thể coi nhẹ tác dụng của tay không cầm vợt trong môn bóng bàn. Tay không cầm vợt ngoài việc có thể duy trì thăng bằng cơ thể ra còn phải biết phối hợp vung tay nhịp nhàng, hợp lý với tay cầm vợt để nâng cao được tốc độ vung vợt, tăng cường sức mạnh

II. Lựa chọn vị trí đứng.

1. Tầm quan trọng của vị trí đứng.

Vị trí đứng của VĐV là vị trí đứng phù hợp với đặc điểm đánh bong của mình, trước khi đánh bong chọn được vị trí đứng chính xác sẽ có thể phát huy tốt hơn sở trường kỹ thuật của mình, bù đắp vào chỗ khiếm khuyết về kỹ thuật, đồng thời đạt được phạm vi quán xuyến bong tương đối toàn diện.

2. Phương pháp chọn vị trí đứng.

Căn cứ vào cự ly giữa VĐV với bàn bong mà có thể chia vị trí đứng ra thành: Đứng gần bàn, đứng trung bình và đứng xa bàn. Trong đứng trung bình lại chia thành: trung bình gần và trung bình xa.
Đứng gần bàn là vị trí đứng của VĐV cách bàn bóng khoảng 0,5m
Đứng trung bình gần bàn là vị trí đứng của VĐV cách bàn bóng khoảng 0,7m
Đứng xa bàn là vị trí đứng của VĐV cách bàn bóng trên 1m.
Đứng trung bình xa bàn là vị trí đứng của VĐV cách bàn bóng khoảng 1m.
Vị trí đứng của VĐV bóng bàn cần căn cứ vào loại hình cách đánh, đặc điểm kỹ thuật cá nhân khác nhau mà xác định để có lợi nhất cho việc phát huy sở trường kỹ thuật của mình.
- Vị trí đứng cơ bản của cách đánh đẩy trái công phải ở người cầm vợt dọc nên ở khu vực trung bình gần hơi lệch trái, cách bàn khoảng trên dưới 40cm, nói chung chân trái hơi ra trước, chân phải ở phía sau.
- Vị trí đứng cơ bản của cách đánh tấn công 2 mặt nên ở giữa khu vực gần bàn, cách bàn khoảng trên dưới 50cm, nói chung chân trái hơi ra trước, chân phải hơi ra sau.
- Vị trí đứng cơ bản của cách đánh lấy líp bóng làm chính nên hơi lệch trái ở cự ly trung bình hoặc trung bình gần.
- Vị trí đứng cơ bản của cách đánh lấy cắt công ở người đánh vợt ngang đứng ở khu vực cự ly trung bình gần.
- Vị trí đứng cơ bản của cách đánh lấy cắt bóng là chính đứng ở khu vực cự ly trung bình xa.
Lưu ý:
Các vị trí đứng cơ bản nói trên là vị trí đứng khi chuẩn bị đánh trả bóng đối phương đánh sang nói chung.

Trong thực tế thi đấu, VĐV cần căn cứ vào độ gần xa và phương hướng vị trí bóng đến, di động tới vị trí của mình mới có thể dùng phương pháp tay chuẩn xác đánh trả các loại bóng đến khác nhau.

3. Tư thế đứng.

Vị trí đứng chính xác của VĐV bóng bàn còn phải cần phối hợp với tư thế đứng chính xác. Tư thế đứng chính xác không chỉ có lợi cho xuất phát nhanh mà còn quán xuyến được toàn bàn bóng, đồng thời còn có lợi cho VĐV kịp thời sử dụng các loại kỹ thuật đánh trả bóng đến.
Tư thế chuẩn bị đánh trả các loại bóng đến của đối phương (gọi tắt là tư thế chuẩn bị) là: Hai chân dang rộng hơn vai, hai gối hơi khuỵ, kiễng gót, cạnh trong phía mũi bàn chân chạm đất, trọng tâm cơ thể rơi vào giữa hai chân, thân người hơi ngả về phía trước, hóp bụng, ngực. Tay cầm vợt co tự nhiên.
Đối với VĐV cầm vợt dọc, khuỷ tay hơi khuỳnh ra ngoài, vợt đặt phía trước bên phải bụng, cổ tay thả lỏng tự nhiên, tay không cầm vợt co tự nhiên ở phía trái cạnh thân, mắt nhìn chú ý vào bóng đến.
Đối với VĐV cầm vợt ngang, vợt đặt phía trước bên phải bụng, , khuỷ tay cầm vợt chúc xuống,cổ tay thả lỏng tự nhiên, tay không cầm vợt co tự nhiên phía trái thân, mắt chăm chú nhìn vào bóng đến.
Chú ý: Trong tư thế chuẩn bị của cả VĐV vợt dọc và vợt ngang thì bàn tay, cánh tay, cẳng tay và cổ tay phải thả lỏng tự nhiên tạo thuận lợi cho phát lực đánh bóng.

III. KỸ THUẬT ĐÁNH BÓNG.

1. Kỹ thuật giao bóng.

Giao bóng là kỹ thuật duy nhất hoàn toàn phụ thuộc vào ý trí của VĐV mà không chịu sự tác động của đối phương trong việc lựa chọn vị trí đứng, dùng sức mạnh, tốc độ, độ xoay, đường bóng… để đánh bóng đến bất kỳ vị trí nào trên mặt bàn của đối phương. Nếu VĐV phát bóng có chất lượng cao có thể tạo ra cơ hội thuận lợi cho tấn công dứt điểm, thậm chí có thể giành điểm trực tiếp.
Dựa vào vị trí đánh bóng có thể chia giao bóng thành giao bóng thuận tay, giao bóng trái tay, giao bóng nghiêng người và giao bóng kiểu ngồi xổm.
Dựa vào độ cao tung bóng có thể chia thành giao bóng tung bóng cao và giao bóng tung bóng thấp.
Dựa vào đặc điểm của quả giao bóng có thể chia thành giao bóng lấy tốc độ là chính, giao bóng lấy độ xoáy làm chính, giao bóng lấy điểm rơi là chính.
Vì vậy mỗi VĐV cần phải tập tốt một hoặc hai loại giao bóng sở trường khác nhau để có thể phối hợp với cách đánh của mình giành chủ động trong thi đấu.

a. Kỹ thuật giao bóng tung bóng thấp.

* Kỹ thuật giao bóng đánh ngang bóng.

- Đặc điểm:

Tốc độ bóng bình thường, cơ bản bóng xoáy ít hoặc không xoáy. Đây là kỹ thuật nền tảng để nắm vững các kỹ thuật giao bóng phức tạp khác, vì vậy AE bắt đầu học đánh bóng bàn trước hết cần học và nắm bắt thật tốt kỹ thuật giao bóng này.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Vị trí đứng ở cự ly trung bình so với bàn hoặc hơi lệch phải, thân người cách mép bàn khoảng 35cm, hai chân đứng tách sang 2 bên hơi rộng hơn vai, chân trái hơi ra trước, trọng tâm rơi vào giữa hai chân, thân trên hơi xoay sang phải, tay trái đỡ bóng ở phía trước bên phải thân. Sau đó tay trái tung bóng nhẹ nhàng lên trên không, đồng thời tay phải đưa vợt ra phía sau bên phải và làm cho mặt vợt hơi nghiêng ra trước. Khi bóng rơi xuống ở độ cao cao hơn mặt lưới thì đưa vợt theo hướng từ sau ra trước, sang trái và đánh vào phần giữa trên của bóng sao cho điểm rơi chạm bóng thứ nhất vào khoảng giữa bàn của mình bật sang bàn đối phương. Sau khi bóng được đánh đi, tay phải theo đà vung ra phía trước sang trái. Trong quá trình giao bóng trọng tâm cơ thể chuyển dần từ chân phải sang chân trái.

* Kỹ thuật giao bóng nhanh thuận tay.

- Đặc điểm:

Tốc độ bóng nhanh, đường vòng cung thấp, điểm rơi xa, đường bóng đi có độ xoáy lên hoặc xoáy lên bên phải tương đối mạnh. Đây là một trong những kỹ thuật giao bóng mà vận động viên loại hình tấn công thường dùng. Sau khi chạm bàn, bóng sẽ lao trước đồng thời quẹo sang phải, khi đối phương đánh trả dễ bị hụt bóng hoặc đánh bóng lền cao.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Vị trí đứng ở bên phải gần mép bàn, thân người cách mép bàn khoảng 35cm, hai chân đứng tách sang 2 bên hơi rộng hơn vai, chân trái hơi ra trước, chân phải hơi xoay sang phải. Tay trái nâng bóng lên ở bên phải trước bụng, tay phải cầm vợt cũng ở bên phải thân người, tay trái nhẹ nhàng tung bóng lên, tay phải cầm vợt đưa ra phía sau bên phải. Đợi khi bóng rơi xuống, cẳng tay nhanh chóng vung vợt ra trước, làm cho mặt vợt hơi nghiêng ra trước, đánh vào phần trên giữa của bóng đồng thời tạo ma sát của vợt vào phía trên phải của bóng. Sau khi đánh vào bóng theo đà cẳng tay và cổ tay vung ra trước.
Điểm chạm bóng bên bàn mình nên cố gắng ở gần đường mép đầu bàn. Trong quá trình giao bóng trọng tâm cơ thể chuyển dần từ chân trái sang chân phải.

* Kỹ thuật giao bóng nhanh trái tay.

- Đặc điểm:

Tốc độ bóng nhanh, đường vòng cung thấp, điểm rơi xa, lực lao lớn, đường bóng đi có độ xoáy lên hoặc xoáy lên bên phải tương đối mạnh. Đây là một trong những kỹ thuật giao bóng mà vận động viên loại hình tấn công thường dùng.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Vị trí đứng ở bên trái gần mép bàn, thân người cách mép bàn khoảng 35cm, hai chân đứng tách sang 2 bên hơi rộng hơn vai, chân phải hơi ra trước, thân người hơi xoay sang trái. Tay trái nhẹ nhàng tung bóng lên, tay phải cầm vợt đưa ra phía sau bên trái. Đợi khi bóng rơi xuống, cẳng tay nhanh chóng vung vợt ra trước bên phải, làm cho mặt vợt hơi nghiêng ra trước, đánh vào phần trên giữa của bóng đồng thời tạo ma sát vào bóng theo hướng lên trên. Sau khi đánh vào bóng theo đà cẳng tay và cổ tay vung ra trước.
Để tăng tốc độ vung vợt, trong giây lát tiếp xúc đánh vào bóng cần có sự phối hợp nhịp nhàng sự xoay chuyển của lườn và thân trên.

* Kỹ thuật giao bóng xoáy xuống nhanh trái tay.

- Đặc điểm:

Tốc độ bóng nhanh, đường vòng cung thấp, điểm rơi xa. Khi đối phương đánh trả không dễ dùng sức mạnh đánh bóng được nên tốc độ đánh trả bóng chậm, đồng thời dễ đánh bóng lên cao. Vì vậy sau khi giao quả này dễ cướp tấn công hoặc giành được thế chủ động.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Giống với kỹ thuật giao bóng nhanh trái tay, sự khác biệt ở đây là vị trí vợt trước khi giao bóng tương đối cao, đợi khi bóng rơi xuống, vợt sẽ vung từ phía trên đằng sau ra phía dưới đằng trước làm cho mặt vợt ngửa sau, đánh vào phần giữa dưới của bóng đồng thời có sự cọ sát của vợt vào bóngtheo hướng xuống dưới đằng trước. Điểm đánh vào bóng nói chung hơi thấp hơn mặt lưới. Điểm chạm bóng bàn mình nên áp sát đường vạch đầu bàn.

* Kỹ thuật giao bóng ngắn trái tay.

- Đặc điểm:

Sức mạnh yếu, đường bóng ngắn, điểm rơi gần lưới, bóng không xoáy hoặc xoáy yếu buộc đối phương phải di chuyển lên sát bàn đỡ bóng, đồng thời đối phương không dễ dùng sức để tấn công. Nếu như đối phương dùng gò bóng để đánh trả dễ đánh thành bóng cao. Kiểu giao này thích hợp nhất là sử dụng phối hợp với giao bóng nhanh làm cho đối phương phải chạy ngược chạy xuôi, lên xuống.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Tư thế chuẩn bị cần giống hết mức với giao bóng nhanh. Nhưng khi đánh vào bóng mặt vợt hơi ngửa ra sau, dùng cẳng tay và cổ tay liệng vợt ra trước đánh nhẹ vào phần dưới giữa của bóng. Độ cao điểm đánh bóng xấp xỉ ngang bằng với độ cao mặt lưới. Điểm chạm bàn bên mình tốt nhất là ở khu vực giữa của bàn.

* Kỹ thuật giao bóng xoáy nghiêng trái lên (xuống) thuận tay.

- Đặc điểm:

Có độ xoay nghiêng trái lên hoặc xoay nghiêng trái xuống tương đối mạnh. Trong quá trình bay của bóng có hướng quẹo phải… Phương pháp tay khi giao bóng cần cố gắng thực hiện giống với giao bóng giữa xoay nghiêng lên và xoay nghiêng xuống làm cho đối phương khó nhận biết được hướng xoáy của bóng dẫn tới đánh bóng chúc lưới hoặc bóng bổng thậm chí có thể làm cho bóng bắn mạnh sang bên trái ra ngoài bàn.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Vị trí đứng áp sát gần bàn phía bên phải, thân người cách bàn khoảng 35cm, chân trái hơi ra trước, thân trên hơi xoay sang phải. Tay trái giữ bóng ở bên phải trước bụng áp sát đầu bàn bóng, tay phải cầm vợt ở bên phải thân người. Cùng lúc với tay trái tung bóng thì tay phải đưa vợt lên phía trên bên phải, đợi khi bóng rơi xuống độ cao ngang mặt lưới thì tay cầm vợt vung nhanh xuống phía dưới sang trái đánh vào bóng. Nếu giao bóng xoáy nghiêng xoáy lên, trong giây lát vợt tiếp xúc bóng, cổ tay xoay nhanh lên trân bên trái làm cho vợt đánh vào phần giữa bóng và ma sát vào bóng theo hướng lên trên sang trái. Sau khi đánh bóng tay vung lên theo đà lên phía trên bên trái. Nếu muốn giao bóng xoáy nghiêng xoáy xuống sang trái, trong giây lát vợt tiếp xúc bóng cổ tay xoay nhanh sang trái và xuống dưới, làm cho vợt đánh vào phần giữa bóng và ma sát vào bóng theo hướng xuống dưới bên trái. Sau khi bóng rời khỏi vợt, vợt cần vung lên trên và sang trái để động tác giống với giao bóng xoáy nghiêng xoáy xuống.

* Kỹ thuật giao bóng xoáy nghiêng xoáy lên (xoáy xuống) bên phải trái tay.

- Đặc điểm:

Có độ xoáy nghiêng xoáy lên bên phải hoặc xoáy nghiêng xoáy xuống bên phải tương đối mạnh. Trong quá trình bay trong khồng trung bóng có hướng quẹo sang trái. Khi giao bóng thủ pháp thực hiện cần giống nhau để đối phương khó nhận biết được phương hướng xoáy của bóng làm cho khi đánh trả dễ đánh bóng cao hoặc chúc lưới thậm chí có thể làm cho bóng bắn mạnh lệch sang phía bên phải (có thể ra ngoài).

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Vị trí đứng ở phía bên trái gần bàn, thân người cách bàn khoảng 35cm, chân phải lệch ra trước, thân người hơi quay sang trái, hóp bụng. Tay trái giữ bóng ở phía trước bên trái bụng áp vào gần mép cuối bàn. Tay phải cầm vợt ở phía trái cơ thể. Khi tay trái tung bóng, tay phải đưa vợt lên phía trên bên trái làm cho chuôi vợt hướng xuống phía dưới bên phải. Đợi khi bóng rơi xuống đến độ cao ngang mặt lưới thì cổ tay và cẳng tay vung xuống dưới sang phải đánh bóng. Nếu muốn giao bóng xoáy nghiêng xoáy lên bên phải thì trong giây lát vợt tiếp xúc bóng cổ tay xoay lên trên bên phải, làm cho vợt đánh vào phần giữa của bóng đồng thời tạo ma sát vào bóng theo hướng lwn trên và sang phải. Sau khi đánh vào bóng vung vợt theo đà lên phía trên bên phải. Nếu muốn giao bóng xoáy nghiêng xuống dưới bên phải thì trong giây lát vợt tiếp xúc bóng cổ tay xoay xuống dưới bên phải làm cho vợt đánh vào phần giữa của bóng, đồng thời tạo ma sát vào bóng theo hướng xuống dưới và sang phải. Sau khi bóng rời khỏi vợt, vợt cần lập tức vung lên phía trên bên phải để tạo ra động tác giống như khi giao bóng xoáy nghiêng xoáy lên bên phải.

* Kỹ thuật giao bóng xoáy xuống “ xoáy và không xoáy” thuận tay.

- Đặc điểm:

Đây là một kiểu kỹ thuật giao bóng xoáy xuốgn có thêm xoáy và không xoáy. Hai loại xoáy và không xoáy có tốc độ xoáy khác nhau rất lớn. Đối phương rất khó nhận biết được tốc độ xoáy của bóng, khi đánh trả dễ bị bóng cao hoặc đánh bóng ra ngoài, đánh bóng chúc lưới.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Vị trí đứng ở khoảng giữa hoặc hơi lệch trái cách bàn khoảng 40cm, người hơi quay ra sau. Chân trái đứng hơi ra trước, tay trái giữ bóng ở phía trước bụng hơi lệch phải đồng thời áp gần mép ngang cuối bàn. Tay phải cầm vợt bên phải thân. Tay trái tung bóng lên nhẹ nhàng đồng thời tay phải đưa vợt ra phía sauvà lên trên, mặt vợt hơi ngửa sau. Khi bóng rơi xuống đến độ cao ngang mặt lưới thì cẳng tay nhanh chóng vung vợt ra trước, xuống dưới đánh bóng. Nếu giao bóng có thêm độ xoáy của bóng thì trong giây lát vợt tiếp xúc bóng, cẳng tay xoay ra ngoài kéo theo cổ tay dùng lực miết xuống phía dưới má sát vào phần dưới giữa bóng. Sau khi đánh vào bóng, vung vợt theo đà xuống phía dưới trước bên trái. Nếu không muốn thêm độ xoáy của bóng thì trong giây lát vợt tiếp xúc vào bóng, không cần dùng sức quay cổ tay, mặt vợt sẽ trực tiếp đánh ra trước vào phần giữa của bóng để giảm bớt sức mạnh ma sát xuống dưới vào bóng. Đợi sau khi bóng rời khỏi vợt, cẳng tay nhanh chóng xoay ngoài, kéo theo xoay cổ tay đồng thời vung nhanh vợt xuống phía dưới trước bên phải tạo cảm nhận sai cho đối phương.
Kỹ thuật giao bóng xoáy xuống “xoáy và không xoáy” thuận tay cũng có thể được vận dụng trong giao bóng trái tay (đặc biệt là vợt ngang). Chỉ cần VĐV tập luyện được thành thạo được kỹ thuật giao bóng xoáy xuống “xoáy và không xoáy” thuận tay thì sẽ nắm bắt rất nhanh kỹ thuật giao bóng xoáy xuống “xoáy và không xoáy” trái tay.

* Kỹ thuật giao bóng thuận tay nghiêng người.

- Đặc điểm:

Vị trí đứng giao bóng lệch hẳn ở góc trái (góc ngoài bên trái của bàn bóng), rất có lợi cho cướp tấn công thuận tay sau khi giao bóng.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Các cách giao bóng thuận tay đã trình bày ở các phần trước đều có thể vận dụng trong cách giao bóng thuận tay nghiêng người.
Điểm khác nhau ở đây là do vị trí đứng lệch hẳn sang trái nên chân trái đứng hẳn ra trước, thân trên quay lệch sang bên phải và trục vai gần như vuông góc với bàn. Động tác tay đánh bóng cơ bản giống với các loại giao bóng thuận tay.
Muốn nắm bắt được kỹ thuật này chỉ cần nắm vững các kỹ thuật giao bóng thuận tay đã trình bày ở trên.........
_
b. Kỹ thuật giao bóng tung bóng cao.

- Đặc điểm:

Khi tung bóng cao, độ cao bóng đạt tư 2-3m hoặc cao hơn sẽ tạo ra tốc độ bóng rơi xuống nhanh, lực tổng hợp lớn (tăng lứon hơn lực tác dụng giữa vợt với bóng khi tung bóng thấp). Khi thức hiện kỹ thuật giao bóng nhanh, tốc độ xoáy mạnh lại thêm vào thời gian bóng rơi xuống dài, nhịp độ đánh bóng khác với bình thường, dễ làm phân tán độ chú ý của đối phương nên độ khó khi đánh trả tương đối lớn.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Phần lớn đứng ở vị trí giao bóng nghiêng người ở ngoài góc trái bàn hoặc cũng có thể đứng ở nửa phần bàn bên trái, chân trái hới ra trước, thân trên xoay sang phải một góc khoảng 90 độ. Tay trái nâng bóng hơi cao hơn mặt bàn, dùng sức của cẳng tay là chính để tung bóng lên độ cao khoảng 2-3m hoặc cao hơn, cần cố gắng hết sức khi tung bóng sao cho đường bóng khi tung lên không lệch so với trục thẳng đứng. Các động tác khác khi giao bóng cũng giống như các động tác cơ bản của giao bóng xoáy lên (xoáy xuống) bên trái (thuận tay).
Có điều khi bóng được tung lên cao nên thời gian bóng rơi xuống dài, do đó tay cầm vợt có thể kéo dài hơn cự ly đưa ra sau và vung vợt đánh bóng.

c. Kỹ thuật giao bóng kiểu ngồi xổm.

- Đặc điểm:

Do tư thế giao bóng ngồi xổm, vị trí đánh bóng ở từ phần vai trở lên nên gọi là giao bóng trên tay. Do vị trí cơ thể khi đánh vào bóng không giống với giao bóng dưới tay nói chung nên đặc điểm bật lên ở mặt bàn và lực bật trở lại trên mặt vợt đối phương của bóng có hướng khác với giao bóng dưới tay, dễ làm cho đối phương đánh bóng hỏng hocặc bóng cao.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Vị trí đứng ở khu vực giữa hoặc lệch trái gần bàn, chân trái hơi đứng ra trước hoặc đứng ngang bằng chân (so với đường mép đầu bàn bóng). Thân trên hơi xoay sang phải, tay trái giữ bóng đặt ở phía trước bên phải thân người. Tay phải cầm vợt để ở bên cạnh phải của thân, tư thế cơ bản sau khi tung bóng có hai kiểu:

+ Kiểu thứ nhất: Lúc đầu tung bóng lên ở tư thế đứng thẳng, sau đó ngồi xổm thấp xuống để đánh bóng.

+ Kiểu thức hai: Bắt đầu bằng tư thế ngồi xổm cao, sau đó mới tung bóng lên và đánh bóng.

Khi giao bóng xoáy nghiêng phải xoáy lên thuận tay kiểu ngồi xổm thì sau khi tung bóng, tay phải giơ lên trên cao hơn vai làm cho mặt vợt hơi lệch sang trái, đợi khi bóng rơi xuống đến độ cao ngang bằng hoặc hơi cao hơn mặt lưới khoảng 15-20cm thì tay phải vung vợt từ bên trái lên trên ra phía trước bên phải đánh vào phần giữa bóng, đồng thời khéo léo dùng sức ma sát vào bóng theo hướng lên trên bên phải. Điểm chạm bàn bên mình nên ở giữa bàn. Sau khi đánh bóng cánh tay vung theo đà ra trước sang phải đồng thời nhanh chóng đứng lên về tư thế chuẩn bị đón bóng đối phương trả giao bóng.
Động tác giao bóng xoáy nghiêng xoáy xuống bên trái thuận tay trên cơ bản cũng giống với giao bóng xoáy nghiêng xoáy lên bên phải thuận tay. Chỗ khác biệt là khi bóng rơi từ trên cao xuống ở độ cao cao hơn mặt lưới thì đánh vào phần giữa dưới của bóng, đồng thời ma sát vào bóng theo hướng phía dưới bên phải.

Kiểu ngồi xổm cũng có thể giao bóng trái tay nhưng trong thi đấu chính thức không nên sử dụng nhiều. Nếu AE có hứng thú với loại giao bóng trái tay này có thể trên cơ sở tập luyện tốt giao bóng thuận tay sẽ có thể tập luyện kiểu giao bóng trái tay.

2. Kỹ thuật đỡ giao bóng.

Đỡ giao bóng là một trong 3 kỹ thuật quan trọng hàng đầu đối với mỗi vận động viên môn bóng bàn. Do kỹ thuật giao bóng hiện đại ngày nay phát triển nhanh chóng, ngày càng nhiều chủng loại đã làm tăng độ khó của kỹ thuật đỡ giao bóng lên rất nhiều.
Trong mỗi hiệp thi đấu bóng bàn, đõ giao bóng cũng giống với giao bóng. Nếu đỡ giao bóng không tốt thì không những có thể mất điểm trực tiếp hoặc tạo ra cơ hội tấn công cho đối phương mà còn khó có thể phát huy được kỹ chiến thuật của bản thân, làm cho bản thân dễ xuất hiện tâm lý căng thẳng và sợ sệt, từ đó thất bại là lẽ đương nhiên. Ngược lại, nếu như nắm vững được kỹ thuật đỡ giao bóng thì có thể biến đổi từ bị động sang chủ động tạo đà cho thi đấu tốt trong mỗi ván đấu.

a. Chuẩn bị đỡ giao bóng.

Muốn đỡ giao bóng tốt, trước hết cần phải phải lựa chọn tốt được vị trí đứng. Nếu như đối phương đứng giao bóng ở góc phải của bàn bóngthì có thể giao bóng đến vị trí trái tay hoặc cũng có thể đến bên phải của bàn mình, thì vị trí đứng đỡ giao bóng tốt nhất nên ở khu vực giữa hoặc lệch sang bên phải một chút.
Nếu như đối phương đứng giao bóng ở vị trí góc trái của bàn bóng thì có thể giao bóng đến vị trí tay phải hoặc cũng có thể đến bên trái của bàn mình, thì vị trí đứng đỡ giao bóng nên ở khu vực giữa bàn hoặc lệch sang bên trái một chút.
Nếu đối phương giao bóng ở khoảng giữa bàn thì vị trí đứng của đõ giao bóng cũng không nên quá lệch sang một bên.
Ngoài ra còn cần dựa vào đặc điểm cách đánh, sở trường kỹ thuật và thói quen về vị trí đứng của mình để sử dụng vị trí đứng xa, gần hoặc trung bình cho phù hợp trong khi đối phó với cách giao bóng dài hoặc ngắn.

* Phán đoán bóng đến.

Muốn đỡ giao bóng tốt cần phải phán đoán tương đối chính xác độ xoáy, tốc độ, sức mạnh, điểm rơi, độ cao của bóng đến mới có thể sử dụng phương pháp đánh trả cho chính xác, phù hợp với đặc điểm tính năng của bóng đến.

- Dựa vào phương hướng vung vợt và góc độ mặt vợt của đối phương để phán đoán đường bay của bóng đến. Nếu mặt vợt của đối phương nghiêng, đồng thời vung vợt nghiêng ra trước thì bóng phát ra nhất định là bóng đường chéo, ngược lại nếu mặt vợt của đối phương hướng ra trước theo hướng thẳng thì bóng phát ra nhất định là bóng đường thẳng.

- Từ phương hướng vung vợt và ma sát vào bóng trong giây lát đối phương đánh vào bóng để phán đoán phương hướng xoáy của bóng đánh sang. Ví dụ, nếu vung vợt và ma sát bóng từ trên xuống dưới là xoáy lên, vung vợt và ma sát với bóng từ trái sang phải là xoáy nghiêng bên phải…v.v. Nhưng cũng cần chú ý là không nên bị mê hoặc bởi động tác giả của đối phương trước và sau khi đánh vào bóng.

- Phán đoán cường độ, tốc độ, đọ xa gần của điểm rơi từ mức độ lớn nhỏ của tốc độ vung vợt trong giây lát đánh vào bóng và độ “dày”, “mỏng” khi cắt bóng của đối phương. Nói chung tốc độ vung vợt nhanh lại cắt bóng “mỏng” đều là bóng có thêm độ xoáy.

Có những vận động viên giỏi về khả năng giao bóng, khi giao bóng nhanh gấp lúc đầu tốc độ vung vợt cố ý làm chậm nhưng khi đến thời điểm vợt tiếp xúc bóng, cổ tay đột ngột phát lực lắc mạnh làm cho tốc độ bóng đi nhanh, bên đõ giao bóng có thể bị đối phương lừa bởi động tác chậm trước khi vợt tiếp xúc bóng nên trở tay không kịp.

- Phán đoán điểm rơi của bóng đánh sang từ vị trí điểm rơi bóng bên bàn đối phương và độ vòng cung của bóng khi đối phương giao bóng. Nếu điểm rơi lần thứ nhất khi giao bóng gần lưới hoặc đường vòng cung của bóng đánh sang có điểm cao nhất định (đỉnh cao của vòng cung) ở trên khoảng không của bàn đối phương hoặc gần lưới, thì điểm rơi của bóng đánh sang tất nhiên sẽ gần lưới. Ngược lại, nếu như điểm rơi lần thứ nhất ở gần đầu bàn đối phương đồng thời điểm cao của đường vòng cung lại ở trên khoảng không cảu mặt lưới thì điểm rơi của bóng sẽ xa.

- Phán đoán cường độ xoáy của bóng từ tốc độ vung vợt và âm thanh phát ra khi vợt đánh vào bóng của đối phương (nghe âm thanh mà phán đoán cường độ bóng xoáy đã có 1 topic tranh luận rất sôi nổi bên TTVNOL, topic đó bây giờ MOD đã đóng rồi, AE nào có hứng thú thì tham khảo thêm nhé). Ví dụ, tốc độ vung vợt trong thời điểm đánh vào bóng nhanh, nhưng âm thanh phát ra nhẹ thì bóng đánh sang sẽ rất xoáy. Ngược lại nếu âm thanh phát ra khi đánh vào bóng to, chắc thì độ xoáy của bóng đánh sang sẽ không xoáy hoặc xoáy yếu.

Ngoài ra còn có một số phương pháp khác bổ trợ để phán đoán tính năng, đặc điểm cảu bóng khi đánh sang như quan sát đường vòng cung bay và hình dạng của nó để phán đoán phương hướng và cường độ xoáy của bóng đánh sang, bản năng, kinh nghiệm thi đấu…Vấn đề này cần dựa vào sự nhận biết và lý giải được tính chất của các loại bóng xoáy, hình dạng đường bay vòng cung của vận động viên. Người tập cần phải thông qua quá trình tập luyện lâu dài kết hợp kiểm nghiệm trong thực tế để nâng cao trình độ cho mình.

b. Phương pháp đỡ giao bóng.

Phương pháp cơ bản của đỡ giao bóng gồm có: Giật bóng, công bóng, tạt bóng, vuốt bóng, gò bóng, cắt bóng, đẩy bóng, chặn bóng, đập nhỏ, bỏ nhỏ.

* Đỡ giao bóng nhanh thuận tay và trái tay.

Vì tốc độ bóng đánh sang nhanh, đường vòng cung thấp, điểm rơi xa, xung lực (lực lao) lớn lại có thêm độ xoáy lên nên bóng đi nhanh, góc độ lớn ở bên trái thường không kịp né thân đánh trả. Vì vậy nên thường dùng đẩy chặn trái tay hoặc đánh trả giật nhanh hoặc công nhanh thuận tay. Khi dùng cắt bóng đánh trả nên lùi ra sau một chút, đợi cho tốc độ bóng đánh sang chậm lại một chút sẽ đánh trả sẽ tương đối chắc chắn hơn.

* Đỡ giao bóng xoáy xuống nhanh.

Do bóng đánh sang có tốc độ nhanh, điểm rơi xa lại xoáy xuống, khi đánh trả rất dễ chúc lưới, vì vậy khi đẩy hoặc công bóng đánh trả nên làm cho mặt vợt hơi ngửa ra sau, đồng thời tăng thêm lực lên trên thích đáng. Khi đánh trả bằng gò bóng, cắt bóng nếu tốc độ bóng đánh sang nhanh nhưng cường độ xoáy xuống không lớn thì góc độ mặt vợt không nên quá ngửa sau và điểm tiếp xúc với bóng khi đánh trả nên vào phần giữa bóng đồng thời tăng thêm sức ma sát bóng xuống dưới.

* Đỡ giao bóng xoáy xuống “xoáy và không xoáy”

Trước hết cần phán đoán chuẩn xác độ xoáy của bóng đánh sang.

- Đối với bóng xoáy xuống có thêm độ xoáy thì có thể dùng gò bóng để đỡ trả bóng, đồng thời mặt vợt phải ngửa ra sau và dùng sức ra trước nhiều hơn một chút để “xúc” bóng lên. Nếu dùng giật hoặc líp bóng để đánh trả thì cần tăng sức mạnh kéo nâng lên trên.

- Đối với bóng xoáy xuống “không xoáy” có thể dùng đẩy chặn hoặc công bóng để đánh trả. Nhưng do phần lớn bóng loại này thường có kèm theo xoáy xuống nhẹ, vì vậy khi đánh trả thì góc độ mặt vợt có thể hơi ngửa ra sau (hoặc không nên nghiêng ra trước nhiều) đồng thời tăng thêm lực hướng lên trên thích đáng.

* Đỡ giao bóng ngắn.

Do loại giao bóng này bóng sang bàn mình gần lưới, đồng thời thường được dùng kết hợp với giao bóng nhanh, vì vậy luôn phải chú ý đến điểm rơi của bóng đến. Khi phát hiện bóng đến là bóng ngắn cần phải nhanh chóng di chuyển lên phía trước đến được vị trí đánh bóng thích hợp, sau đó căn cứ vào phương hướng và mức độ xoáy của bóng đến và sở trường kỹ thuật của bản thân để sử dụng gò, đẩy, công, líp bóng cho phù hợp.
Vì phần lớn bóng loại này đều ở trong bàn nên khi đánh trar thì vợt thường bị trở ngại của mặt bàn, làm cho biên độ động tác không thể lớn nên cần phải vận dụng đầy đủ sức mạnh của cẳng tay và cổ tay đồng thời cần phải dựa vào tính năng xoáy của bóng đến để điều chỉnh góc độ mặt vợt và phương hướng dùng sức cho phù hợp.
Sau khi đánh bóng cần nhanh chóng trở về vị trí đứng bình thường chuẩn bị đón đánh bóng lần sau.

* Đỡ giao bóng xoáy lên (xoáy xuống) bên trái thuận tay.

Do loại giao bóng này thường có thủ pháp tay giống nhau nhưng độ xoáy lại có sự khác biêth giữa xoáy nghiêng lên và xoáy nghiêng xuống. Do vậy trước khi đánh trả cần phải đặc biệt chú ý đến phương hướng xoáy của bóng đến.
Đỡ giao bóng xoáy nghiêng lên thường sử dụng đẩy bóng, công bóng để đánh trả. Khi đỡ bóng mặt vợt cần hơi nghiêng trước, đồng thời hơi nghiêng lệch sang trái một cách thỏa đáng, cần tăng thêm lực hướng xuống phía dưới và phía trước để phòng ngừa khi vợt tiếp xúc với bóng sẽ bật ngược sang phía bên phải. Nếu dùng gò bóng hoặc cắt bóng để đỡ bóng thì mặt vợt không nên ngửa ra sau quá nhiều, đồng thời hơi nghiêng lệch sang trái thỏa đáng, ngoài ra còn phải tăng lớn lực ma sát vào bóng theo hướng xuống phía dưới. Khi dùng líp bóng để đánh trả cần tăng lớn góc độ nghiêng trước của mặt vợt, đồng thời giảm tối đa sức mạnh nâng kéo lên trên, tăng thêm lực kéo ra trước.

Đỡ bóng xoáy nghiêng xuống dưới bên trái nên dùng gò, cắt để đánh trả. Khi đỡ bóng cần hơi ngửa ra sau, đồng thời hơi nghiêng lệch sang trái, tăng thêm lực hướng ra trước, ngăn ngừa bóng đến bật trở lại ra phía dưới bên trái. Nếu dùng đẩy bóng, công bóng để đỡ thì mặt vợt cần hơi ngửa ra sau, đồng thời hơi nghiêng lệch về bên trái, tăng tối đa sức mạnh ma sát bóng lên trên. Khi dùng líp bóng để đỡ trả thì mặt vợt không nên quá nghiêng về trước, đồng thời tăng thêm sức mạnh nâng kéo lên trên.

* Đỡ giao bóng xoáy lên (xoáy xuống) bên phải trái tay.

Phương pháp đỡ giao bóng xoáy lên (xoáy xuống) bên phải trái tay về cơ bản giống với đỡ giao bóng xoáy lên (xoáy xuống) bên trái thuận tay, chỉ khác là khi đánh vào bóng vợt cần phải nghiêng lệch sang bên phải thỏa đáng để triệt tiêu sức mạnh bắn sang bên trái của bóng đến.

Trên đây là các phương pháp đỡ các loại giao bóng nói chung. AE tập khi đã thành thạo được các phương pháp nói trên sẽ làm cho kỹ thuật cơ bản của mình được nâng cao. Dựa vào sở trường kỹ thuật của mình và đòi hởi kỹ - chiến thuật trong thi đấu có thể vận dụng các phương pháp khác nhau để chủ động đánh trả các loại giao bóng của đối phương.

3. Đẩy, chặn bóng.

Đẩy chặn bóng là tên gọi chung của đẩy bóng và chặn bóng. Đây là một trong những kỹ thuật chủ yếu của loại hình đẩy trái công phải và cũng là kỹ thuật không thể thiếu của cách đánh các loại hình khác.
Vị trí khi đẩy, chặn bóng là đứng gần bàn, động tác nhỏ, tốc độ nhanh, điểm rơi biến hóa liên tục, cũng có một số biến đổi xoáy. Khi phối hợp sử dụng các loại kỹ thuật đẩy chặn có thể lợi dụng biến đổi tốc độ, điểm rơi, độ xoáy giành chủ động tạo ra các cơ hội tấn công. Khi ở tư thế bị động hợc giằng co, có thể tạo ra tác dụng phòng thủ tích cực, đồng thời từng bước chuyển từ bị động và giằng co thành thế chủ động.

Đẩy, chặn bóng có thể chia thanh: chặn ngang đẩy nhanh tăng lực, chặn giảm lực đẩy xoáy xuống, đẩy xoáy nghiêng…

a. Chặn bóng (chặn ngang)

- Đặc điểm:

Chặn bóng là dùng sức nhỏ, tốc độ chậm, điểm rơi vừa phải, không xoáy hoặc xoáy nhẹ. Động tác chặn bóng đơn giản, dễ nắm vững được kỹ thuật, là kỹ thuật nhập môn của vận động viên mới tập bóng bàn. Thông qua tập luyện có thể làm quen với tính năng bóng, nắm bắt động tác, đặt nền móng kỹ thuật cho việc học các kỹ thuật đẩy chặn khác.

Chặn bóng được chia làm hai loại: Chặn bóng trái tay và chặn bóng thuận tay.

* Thực hiện kỹ thuật động tác chặn bóng trái tay:

Đứng ở khoảng giữa hoặc lệch trái bàn bóng, thân người cách bàn khoảng 40-50cm. Hai chân mở sang 2 bên rộng hơn vai, chân phải hơi ra trước hoặc hai chân đứng ngang bằng, hai đầu gối hơi khụy, hóp bụng và ngực, thân trên hơi quay sang trái, tay phải co tự nhiên cầm vợt ở phía trước thân người hoặc hơi lệch trái, đồng thời cẳng tay xoay trong làm cho mặt vợt gần như vuông góc với mặt đất. Khi bóng đánh sang bật lên khỏi mặt bàn, cẳng tay nhanh chóng đưa vợt ra trước đón bóng, ở thời điểm bóng đi lên, dùng mặt vợt vuông góc với mặt bàn đẩy vào phần giữa của bóng. Trong giây lát vợt tiếp xúc vào bóng chỉ dùng sức nhẹ nhàng của cẳng tay và cổ tay. Chủ yếu dựa vào sức bật trở lại của bóng (phản lực) để đánh trả. Sau khi chặn bóng, bàn tay và cánh tay vung ra trước theo đà đồng thời nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị trước khi đánh bóng.
Trong quá trình thực hiện động tác, trọng tâm cơ thể dồn lên hai chân.

* Thực hiện kỹ thuật động tác chặn bóng trái tay:

Đứng ở khoảng giữa hoặc lệch trái bàn bóng, thân người cách bàn khoảng 40-50cm. Hai chân mở sang 2 bên rộng hơn vai, chân trái hơi ra trước hoặc hai chân đứng ngang bằng, hai đầu gối hơi khụy, hóp bụng và ngực, thân trên hơi quay sang phải, tay phải co tự nhiên cầm vợt ở phía bên phải thân người, đồng thời cẳng tay xoay trong làm cho mặt vợt gần như vuông góc với mặt đất.
Khi bóng đến bật lên khỏi mặt bàn, cẳng tay nhanh chóng đưa vợt ra trước bóng. Ở thời điểm bóng bật lên, dùng mặt vợt vuông góc với mặt bàn đẩy vào phần giữa của bóng, chỉ dụng sức nhẹ nhang của cẳng tay và cổ tay, chủ yếu dựa vào sức bật trở lại của bóng để chặn bóng trả lại đối phương. Sau khi chặn bóng, tay vung vợt ra trước theo đà đồng thời nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị trước khi đánh bóng.
Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác đánh bóng, trọng tâm cơ thể dồn lên hai chân.

b. Đẩy nhanh trái tay.

Đặc điểm:

Động tác nhỏ, tốc độ nhanh, điểm rơi biến hóa có kèm theo xoáy lên nhẹ hoặc không xoáy. Đây là kỹ thuật vừa có thể phòng thủ tích cực lại vừa có thể hỗ trợ tấn công và là kỹ thuật được sử dụng nhiều nhất.

* Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng ở khoảng giữa hoặc lệch trái bàn bóng, thân người cách bàn khoảng 40-50cm. Hai chân đứng song song, chân phải hơi ra trước, hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân trên hơi xoay ra trước hoặc sang trái. Cánh tay phải và khủy tay áp sát thân bên phải, co tự nhiên, đưa vợt đến phía trước thân hơi lệch trái, đồng thời cẳng tay xoay ngoài làm cho mặt vợt hơi nghiêng ra trước. Khi bóng đối phương đánh đến ở vào thời điểm đang bật lên thì dùng mặt vợt hơi nghiêng trước đẩy vào phần giữa của bóng. Trong giây lát vợt tiếp xúc vào bóng, cẳng tay và cổ tay hơi dùng sức ra trước hoặc ra trước kèm theo hướng lên trên, mượn lực để đánh trả bóng. Sau khi đánh vào bóng tay và cẳng tay vung ra trước theo đà và nhanh chóng trở về tư thế ban đầu.
Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác đánh bóng, trọng tâm cơ thể dồn lên hai chân.

c. Đẩy tăng lực:

Đặc điểm:

Tốc độ nhanh, sức mạnh lớn, điểm rơi biến hóa, có kèm theo xoáy lên nhẹ hoặc không xoáy.
Có thể hạn chế sức tấn công của đối phương, buộc đối phương lùi xa bàn, tạo cơ hội tấn công.
Kỹ thuật này thường được sử dụng kết hợp với chặn bóng giảm lực để có thể khống chế và điều động được đối phương, giành thế chủ động. Đây là kỹ thuật đẩy chặn có uy lực lớn nhất.

* Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng ở khoảng giữa hoặc lệch trái bàn bóng, thân người cách bàn khoảng 50cm. Hai chân đứng song song, chân phải hơi ra trước, hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân trên hơi xoay ra trước hoặc sang trái. Cánh tay phải và khủy tay áp sát thân bên phải, co tự nhiên, đưa vợt đến phía trước thân hoặc hơi lệch trái, Vợt cao bằng mặt lưới hoặc hơi cao hơn, mặt vợt hơi nghiêng trước. Khi bóng đối phương đánh đến ở vào thời điểm đang vượt qua lưới thì cánh tay, cẳng tay và cổ tay vung vợt ra trước đón bóng. Đồng thời lưng lườn, khớp hông xoay sang trái. Vào cuối thời điểm bóng đi lên hoặc bóng cao nhất của bóng đến, dùng mặt vợt hơi nghiêng trước đẩy vào phần giữa của bóng. Trong giây lát vợt tiếp xúc vào bóng, cánh tay, cẳng tay và cổ tay dùng sức phát lực ra trước và hướng xuống dưới đẩy ép bóng phối hợp với dùng sức nhịp nhàng của toàn thân. Sau khi đánh vào bóng, cánh tay và bàn tay vung ra trước xuống dước theo đà và nhanh chóng trở về tư thế ban đầu.
Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác trọng tâm cơ thể chuyển dịch từ chân trái sang chân phải.

d. Chặn bóng giảm lực.

Đặc điểm:

Động tác nhỏ, lực nhẹ có thể giảm yếu lực bật trở lại của bóng đến nên điểm rơi gần, đường vòng cung thấp, không xoáy, lực tiến ra phía trước yếu.
Phần lớn được sử dụng trong tình huống bóng đánh sang của đối phương có sức mạnh lớn hoặc độ xoáy lên cao (đặc biệt vị trí của đối phương tương đối xa bàn) sẽ có thể điều chuyển được đối phương lên trước để đánh bóng. Nếu như sau khi chặn bóng giảm lực lại kết hợp với công bóng hoặc đẩy tăng lực thì hiệu quả càng cao hơn.

* Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng ở khoảng giữa hoặc lệch trái bàn bóng, thân người cách bàn khoảng 50cm. Hai chân đứng song song, chân phải hơi ra trước, hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân trên hơi xoay ra trước hoặc sang trái. Cánh tay phải và khủy tay áp sát thân bên phải, co tự nhiên, đưa vợt đến phía trước thân hoặc hơi lệch trái, cẳng tay xoay ngoài làm cho mặt vợt hơi nghiêng trước. Sau khi bóng đối phương đánh đến bật lên khỏi mặt bàn, cẳng tay và cổ tay vung vợt ra trước đón bóng. Khi bóng ở vào thời điểm đi lên thì dùng mặt vợt nghiêng trước chặn bóng giảm lực vào phần giữa bóng. Trong giây lát đánh vào bóng, cảng tay và cổ tay nhẹ nhàng lùi sau để giảm nhẹ lực bật trở lại của bóng đến làm cho bóng bay nhẹ nhàng trở lại bàn đối phương.
Sau khi đánh bóng nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu. Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể dồn đều lên hai chân.

e. Đẩy bóng xoáy xuống.

Đặc điểm:

Lực mạnh, đường vòng cung thấp, điểm rơi xa, có xoáy xuông gấp (tốc độ bay xoáy xuống tương đối nhanh), bóng đi chìm, đối phương đánh trả không dễ mượng lực nên dễ chuác lưới, do đó có thể hạn chế tấn công của đối phương, tạo cơ hội tấn công. Đây là loại kỹ thuật đẩy bóng có sức uy hiếp lớn.

* Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng ở khoảng giữa hoặc lệch trái bàn bóng, thân người cách bàn khoảng 40cm. Hai chân đứng sang ngang hoặc chân trái hơi ra trước, hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân trên hơi xoay ra trước hoặc sang trái. Cánh tay và khủy tay phải áp sát thân phải, cẳng tay hơi xoay trong, nâng lên và đưa vợt ra trước thân hoặc lệch trái, cao hơn hoặc bằng mặt lưới, mặt vợt hơi ngửa ra sau.
Sau khi bóng đối phương đánh sang và bật khỏi mặt bàn thì cẳng tay và cổ tay vung vợt ra trước, xuống dưới đón bóng. Ở thời điểm khi bóng bật lên gần đến điểm cao nhất thì dùng vợt đẩy vào phần giữa bóng. Trong giây lát đánh vào bóng, cẳng tay, cánh tay và cổ tay dùng sức làm cho vợt ma sát vào bóng theo hướng ra trước xuống dưới. Sau khi đánh bóng, tay vung vợt theo đà ra trước và xuống dưới, đồng thời tư thế nhanh chóng về vị trí ban đầu.
Trong quá trình thực hiện động tác, trọng tâm cơ thể rơi vào cả hai chân.

f. Đẩy ép.

Đặc điểm:

Tốc độ bóng nhanh, đường vòng cung thấp, góc độ khi đẩy có đường chéo lớn, kèm theo xoáy nghiêng xuống bên trái. Tạo độ khó cho đối phương khi đánh trả và đánh trả dễ bay ra ngoài phía bên trái.
Do vị trí của vợt đánh vào bóng ở khu vực hơi xoáy của bóng đánh sang, cho nên đây là kỹ thuật tương đối có hiệu quả để đối phó với líp bóng.

* Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng ở khoảng giữa hoặc lệch trái bàn bóng, thân người cách bàn khoảng 40cm. Hai chân đứng sang ngang hoặc chân trái hơi ra trước, hai gối hơi khụy, hóp bụng và ngực. Thân người xoay ra trước, cánh tay và khủy tay phải áp sát bên phải của thân người, cánh tay co tự nhiên, cẳng tay nâng lên và xoay ngoài, đưa vợt đến trước thân làm cho mặt vợt hơi nghiêng trước. Sau khi bóng đối phương đánh sang bật lên khỏi mặt bàn, cẳng tay và cổ tay vung vợt xuống phía dưới ra trước bên trái đón bóng. Ở thời điểm bóng bắt đầu bật lên dùng mặt vợt hơi nghiêng trước đẩy vào phần giữa bóng, trong giây lát vợt tiếp xúc vào bóng cẳng tay và cổ tay phát lực ra trước và xuống dưới bên trái. Sau khi đánh bóng, lực vung theo đà ra trước và xuống dưới bên trái, đồng thời nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu....

Trong quá trình thực hiện động tác trọng tâm cơ thể rơi vào cả hai chân.

4. Công bóng (bóng tấn công)

Công bóng là một trong những kỹ thuật chủ yếu của loại hình đánh đẩy trái công phải và tấn công hai bên. Đây cũng là một kỹ thuật không thể thiếu của các loại hình cách đánh khác.
Công bóng có sức mạnh lớn, tốc độ nhanh có sự biến hóa điểm rơi phong phú, là biện pháp giành điểm chủ yếu của vận động viên bóng bòn các loại hình kỹ thuật.

Kỹ thuật công bóng có rất nhiều chủng loại.
Dựa vào vị trí đứng có thể phân thành: công bóng thuận tay, né người công bóng và công bóng trái tay.

Dựa vào độ gần xa của vị trí đứng có thể phân thành: công bóng gần bàn, công bóng độ xa trung bình và công bóng xa bàn.

Dựa vào độ khác nhau về tính chất, điểm rơi của bóng đến có thể phân thành: giật công và líp công, công bóng trong bàn và đập bóng cao.

Dựa vào sức mạnh đánh bóng có thể phân thành: công bóng phát lực và công bóng mượn lực…vv.
 

choctietlon

Super Moderators
a. Công bóng thuận tay.

Công bóng thuận tay có tốc độ nhanh, sức mạnh lớn, đường bóng rộng, phạm vi quán xuyến lớn. Là kỹ thuật chủ yếu để đè bẹp đối thủ giành thắng lưọi. Vận động viên bóng bàn cần nắm vững các loại hình kỹ thuật tấn công khác nhau mới có thể thi đấu tốt môn bóng bàn.

* Tấn công nhanh thuận tay.

- Đặc điểm:

Vị trí đứng gàn, động tác nhỏ, tốc độ nhanh, đường bóng linh hoạt có kèm theo xoáy lên. Có thể mượn lực bật trở lại của bóng đến để nâng cao tốc độ bóng, tạo ra cơ hội đập vụt.

Trong thi đấu có thể lấy công thay thế phòng thủ, đối phó với tấn công của đối phương. Đây là kỹ thuật được dùng nhiều nhất trong loại hình cách đánh tấn công nhanh gần bàn.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng ở khu vực giữa hoặc hơi lệch sang bên trái bàn, thân người cách bàn khoảng 50cm, chân trái hơi ra trước. Trọng tâm cơ thể đặt trên chân phải, hai gối hơi khụy xuống, hóp bụng và ngực. Thân người hơi xoay sang phải, tay phải co tự nhiên, cẳng tay hơi ra sau và đưa vợt đến bên phải thân người, hơi lệch phải, đồng thời cẳng tay xoay trong làm cho mặt vợt hơi nghiêng trước. Sau khi bóng đối phương đánh sang bật lên khỏi mặt bàn, đầu tiên là lực của cánh tay, cẳng tay và cổ tay chủ động vung vợt ra phía trước sang phải (nếu độ xoáy lên của bóng đến lớn) hoặc ra trước lên trên sang trái (nếu bóng đối phương đánh sang không xoáy hoặc cường độ xoáy yếu) để đón bóng. Đồng thời thân trên xoay sang trái. Ở thời điểm bóng bật lên dùng mặt vợt nghiêng trước để đánh vào phần giữa của bóng. Trong giây lát vợt tiếp xúc vào bóng dùng cẳng tay, cổ tay phát lực đánh vào bóng theo hướng ra trước và sang trái hoặc ra trước lên trên sang trái có sự hỗ trợ lực của thân trên.

Sau khi đánh vào bóng cẳng tay và bàn tay vung vợt theo đà ra trước, lên trên sang trái và nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu.

Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân phải sang chân trái.

* Vụt nhanh thuận tay (đột kích)

- Đặc điểm:

Vị trí đứng gần bàn, tốc độ bóng nhanh, đường bóng linh hoạt có kèm theo xoáy lên. Điểm đánh bóng ở trong bàn có tính đột kích. Đây là kỹ thuật mang tính tấn công dùng để đối phó với bóng trong bàn (bóng ngắn). Đó cũng là một kỹ thuật mà vận động viên cần phải nắm vững khi thực hiện đánh tấn công gần bàn.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Vị trí đứng áp sát bàn, khi đánh trả theo góc lớn bên phải gần lưới _ chân phải bước ra trước bên phải một bước; khi đánh trả vào giữa hoặc lệch phải gần lưới _ chân trái bước ra trước bên trái một bước, thân người cúi về phía bóng đến, tay phải co tự nhiên, cẳng tay duỗi trước, đưa vợt vào trong bàn.
Nếu bóng đến xoáy lên hoặc không xoáy thì cẳng tay xoay trong làm cho mặt vợt nghiêng trước hoặc vuông góc với mặt bàn. Trong thời điểm bóng bật lên ở điểm cao nhất thì đánh vào phần giữa của bóng. Trong giây lát đánh vào bóng, cẳng tay và cổ tay dùng sức đánh ra trước và lên trên là chủ yếu, đồng thời ngón trỏ hơi thả lỏng, ngón cái ấn vợt, cẳng tay hơi xoay trong.
Nếu bóng đến xoáy xuống thì cẳng tay xoay ngoài, làm cho mặt vợt ngửa sau. Đợi khi bóng bật từ bàn lên điểm cao nhất thì đánh vào phần giữa dưới của bóng. Trong giây lát đánh vào bóng dùng cẳng tay và cổ tay dùng sức đánh ra trước và lên trên là chủ yếu, đồng thời cẳng cẳng tay xoay nhiều vào trong.

Sau khi đánh bóng, tay cầm vợt vung theo đà ra trước và lên trên, động tác cần nhỏ để có lợi cho việc nhanh chóng lùi ra sau.

* Líp nhanh thuận tay.

- Đặc điểm:

Vị trí đứng gần bàn, động tác nhỏ, tốc độ nhanh, đường vòng cung thấp, đường bóng linh hoạt có kèm theo xoáy lên. Có thể mượn lực bật trở lại của bóng đến để nâng cao tốc độ của bóng đánh trả, tạo ra cơ hội đập vụt.
Đây là kỹ thuật chuyên dùng để đối phó với giật bóng.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Vị trí đứng ở khu vực giữa hoặc lệch trái bàn, thân người cách bàn khoảng 40cm, chân trái hơi đứng ra trước, trọng tâm cơ thể rơi vào chân phải, hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân người hơi xoay sang phải. Tay phải co tự nhiên, cẳng tay nâng lên trên đưa vợt đến vị trí hơi cao ở bên phải thân người. Đồng thời cẳng tay xoay trong làm cho mặt vợt nghiêng trước. Sau khi bóng đối phương đánh sang bật khỏi mặt bàn, dùng lực của cổ tay và cẳng tay là chính vung vợt ra trước sang trái đón bóng phối hợp với xoay thân trên sang trái.

Trong thời điểm bóng đi lên, dùng mặt vợt nghiêng trước đánh vào phần giữa lệch trên của bóng, trong giây lát vợt đánh vào bóng, mượn sức xoay của thân làm cho cẳng tay, bàn tay nghiêng trước kéo giật bóng.
Sau khi đánh vào bóng, tay vung vợt theo đà ra trước sang trái và nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị.

Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể di chuyển từ chân phải sang chân trái.

* Phản công bóng cự ly trung bình và xa bàn thuận tay.

- Đặc điểm:

Vị trí đứng hơi xa với bàn, động tác thực hiện rộng, sức mạnh lớn, đường bóng dài có kèm theo xoáy lên, có thể lưọi dụng sức mạnh và điểm rơi biến hóa để giành điểm. Khi bị động có thể lấy tấn công thay phòng thủ, tiến hành phản công để tạo cơ hội đập vụt.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng cách bàn khoảng trên dưới 1m, chân trái hơi đứng ra trước, trọng tâm cơ thể dồn lên chân phải, hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân người hơi xoay sang phải. Tay phải co tự nhiên, đưa vợt xuống dưới ra sau bên phải thân người, đồng thời cẳng tay xoay trong làm cho mặt vợt gần như vuông góc với mặt đất. Sau khi bóng đối phương đánh đến chạm bàn bật lên ở thời điểm cao, đầu liên là cánh tay kéo theo cẳng tay vung vợt lên trên, ra trước sang trái đón bóng cùng với thân trên xoay sang trái. Khi bóng ở thời điểm đi xuống, dùng mặt vợt vuông góc với mặt đất đánh vào phần giữa của bóng, đồng thời ma sát vợt vào bóng theo hướng ra trước và lên trên. Trong giây lát vợt đánh vào bóng, dùng cánh tay, cẳng tay phát lực là chính có sự phối hợp của sự xoay thân.

Sau khi đánh bóng, tay vung vợt theo đà ra trước lên trên, sang trái và nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu. Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân phải sang chân trái.

* Vụt bóng thuận tay.

- Đặc điểm:

Đứng ở vị trí gần bàn, động tác thực hiện rộng, sức mạnh lớn, tốc độ nhanh, bóng đi hơi xoáy lên có độ công kích mạnh. Đây là kỹ thuật tấn công có tính uy hiếp lớn khi đối phó với bóng cao, cao vừa và là biện pháp quan trọng giành điểm của các loại hình kỹ thuật tấn công (đặc biệt là cách đánh loại hình tấn công nhanh).

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng ở khu vực giữa hoặc hơi lệch trái bàn, phần lớn đứng ở vị trí gần bàn, chân trái hơi đứng ra trước, cự ly giữa hai chân rộng hơn so với các loại hình công bóng khác, trọng tâm cơ thể rơi vào chân phải. Hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân người hơi xoay sang phải. Tay phải co tự nhiên, đưa vợt xuống dưới ra sau bên phải thân người, đồng thời cẳng tay xoay trong làm cho mặt vợt hơi nghiêng trước. Sau khi bóng đối phương đánh sang bật lên khỏi mặt bàn, thân người và cánh tay xoay sang trái. Cùng lúc đó cánh tay phát lực kéo theo cẳng tay và cổ tay vung vợt ra trước sang trái đón bóng. Khi bóng bật lên ở thời điểm cao nhất, dùng mặt vợt nghiêng trước đánh vào phần giữa lệch trên của bóng. Trong giây lát vợt đánh vào bóng lấy cánh tay và cẳng tay phát lực là chính, đánh vào bóng theo hướng ra trước và sang trái (khi bóng đánh sang có cường độ xoáy lên lớn thì phát lực đánh bóng theo hướng ra trước xuống dưới và sang trái).

Sau khi đánh bóng, tay cầm vợt vung theo đà ra trước sang trái, đồng thời nhanh chóng trở về vị trí chuẩn bị ban đầu.

Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân phải sang chân trái

Nếu bóng đến xoáy xuống thì mặt vợt không nên quá nghiêng ra trước, đánh vào phần giữa bóng, đồng thời tăng sức mạnh hướng lên trên một cách thỏa đáng.

* Líp công thuận tay

- Đặc điểm:

Vị trí đứng hơi xa bàn, động tác nhỏ, tốc độ nhanh, đường bóng linh hoạt, có kèm theo xoáy lên. Chủ động phát lực đánh bóng, có thể tạo ra cơ hội đập vụt. Đây là kỹ thuật mang tính tấn công có hiệu quả nhất để đối phó với bóng xoáy xuống (đặc biệt là đối phó với cắt bóng). Đây cũng là kỹ thuật mà vận động viên loại hình tấn công gần bàn cần phải nắm vững.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng ở khu vực giữa hoặc hơi lệch trái bàn, thân người cách bàn 50-60cm, chân trái hơi đứng ra trước, trọng tâm cơ thể rơi vào chân phải. Hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân người hơi xoay sang phải. Tay phải co tự nhiên, cẳng tay đưa ra sau và hơi chìm đưa vợt xuống phía dưới ra sau bên phải cơ thể, đồng thời cẳng tay xoay ngoài làm cho mặt vợt hơi ngửa ra sau. Sau khi bóng đối phương đánh sang bật lên khỏi mặt bàn đến vị trí ca, với sự kéo theo của cánh tay, lấy cẳng tay làm chính vung vợt lên trên ra trước sang trái đón bóng, cùng lúc với xoay thân sang trái. Ở thời điểm bóng từ trên cao rơi xuống dùng mặt vợt ngửa sau đón đánh vào phần giữa dưới của bóng (nếu bóng đến có cường độ xoáy xuống nhỏ, có thể đánh vào phần giữa bóng). Trong giây lát vợt đánh vào bóng, lấy cẳng tay phát lực là chính theo hướng ra trước lên trên và sang trái ma sát đánh vào bóng làm cho bóng xoáy lên. Sau khi đánh bóng, tay cầm vợt theo đà lên trên ra trước và sang trái, sau đó nhanh chóng trỏ về tư thế chuẩn bị ban đầu. Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân phải sang chân trái...
_________________

* Đập bóng cao thuận tay.

- Đặc điểm:

Động tác thực hiện và sức mạnh lớn, tốc độ nhanh, đường bóng rộng, bóng không xoáy hoặc hơi xoáy. Đây là kỹ thuật mang tính tấn công có sức uy hiếp lớn để đối phó với bóng cao. Các vận động viên bóng bàn cần nắm vững kỹ thuật cơ bản này.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Vị trí đứng được xác định tùy theo vị trí bóng của đối phương đánh sang. Nói chung cách bàn tương đối xa, chân trái đứng ra trước, trọng tâm cơ thể rơi vào chân phải. Tay phải và thân trên cùng xoay ra phải, cố hết mức đưa vợt ra sau bên phải thân người, đồng thời cẳng tay xoay trong làm cho mặt vợt nghiêng trước.
Ở thời điểm bóng đi lên, chân phải dùng lực đạp đất, thân trên xoay sang trái. Toàn bộ cánh tay vung lên từ phía sau bên phải thân đến vị trí tương đối cao ở phía trước, trên bên trái thân người. Sau đó tiếp tục vung vợt quay xuống phía dưới trước bên trái đón bóng.
Ở trước thời điểm bóng đến đi xuống, dùng mặt vợt nghiêng trước đánh mạnh vào phần giữa trên của bóng. Trong giây lát vợt đánh vào bóng, lưng, lườn, háng và thân trên tích cực phát lực xoay sang bên trái, cánh tay và cổ tay với sự kéo theo của lưng, lườn, háng và thân trên dùng sức phát lực ra trước xuống dưới và sang trái đánh vào bóng. Sau khi đánh bóng, cánh tay vung theo đà về hướng ra trước, xuống dưới bên trái, đồng thời nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu. Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân phải sang chân trái.

* Vụt trượt thuận tay.

- Đặc điểm:

Đứng gần bàn, động tác nhỏ, tốc độ nhanh có kèm theo xoáy nghiêng trái hoặc xoáy nghiêng lên bên trái. Có thể bất ngờ đánh một đường bóng khác thường làm cho đối phương trở tay không kịp, từ đó có thể giành điểm hoặc đối phương đánh trả bóng cao tạo cơ hội đập vụt, tấn công thuận lợi. Đây là một loại kỹ thuật tấn công có sức uy hiếp lớn.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng ở khu vực giữa hoặc hơi lệch trái bàn, thân người cách bàn 50cm, chân trái hơi đứng ra trước, trọng tâm cơ thể rơi vào chân phải. Hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân người hơi xoay sang phải. Tay phải co tự nhiên, đưa vợt ra phía trước bên phải thân, đồng thời cẳng tay xoay trong làm cho mặt vợt vuông góc với mặt đất hoặc hơi nghiêng ra trước (nếu bóng đến xoáy lên). Sau khi bóng đối phương đánh sang bật lên khỏi mặt bàn, cánh tay kéo theo cẳng tay ra phía trước bên trái đón bóng. Trước khi vợt chạm bóng, lợi dụng động tác cổ tay làm cho mặt vợt nghiêng sang phải. Khi bóng đến ở thời điểm cao nhất, dùng mặt vợt vuông góc với mặt đất hoặc hơi nghiêng trước đánh vào phần giữa bên trái hoặc phần giữa lệch trên bên trái của bóng, đồng thời ma sát vào bóng theo hướng ra trước và sang trái. Trong giây lát vợt đánh vào bóng dùng cẳng tay và cổ tay phát lực là chính theo hướng ra trước bên trái. Sau khi đánh bóng, tay cầm vợt theo đà vung về phía trước bên trái.
Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân phải sang chân trái....
__
 

choctietlon

Super Moderators
Kỹ chiến thuật bóng bàn hiện đại (tiếp theo)
________________________________________
b. Né người công bóng thuận tay.

- Đặc điểm:

Khi gặp phải trường hợp bóng đến ở nửa bên trái bàn mà không thể dùng kỹ thuật trái tay để đánh trả mà cần phải di chuyển bước nhanh đến góc ngoài bên trái bàn bóng, dùng kỹ thuật công bóng thuận tay để đánh trả nhằm phát huy tác dụng uy lực của công bóng thuận tay ở vị trí nửa trái bàn.
Đây là kỹ thuật thường được sử dụng trong cách đánh đẩy trái công phải và cũng là kỹ thuật cần nắm vững đối với các vận động viên bóng bàn có các cách đánh khác.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Trước hết cần nhanh chóng di chuyển đến vị trí, né người nghiêng với bàn, chân trái đứng ra trước, thân trên hơi ngả ra trước và hóp bụng.
Dựa vào tình hình bóng của đối phương đánh sang mà ở vị trí né người có thể dùng các loại hình kỹ thuật công bóng thuận tay cho phù hợp (công nhanh thuận tay, vụt nhanh, giật bóng thuận tay, đập bóng thuận tay…) để đánh bóng

c. Công bóng trái tay.

Công bóng trái tay có tốc độ nhanh, sức mạnh lớn, đường bóng linh hoạt. Đây là kỹ thuật chủ yếu để hạ gục đối phương nhanh chóng giành thắng lợi.
Sử dụng công bóng trái tay có thể không dùng hoặc ít dùng né người công bóng, điều này sẽ tránh hoặc giảm thiểu được việc xuất hiện các khoảng trống tương đối lớn bên phải.

Khi phối hợp công bóng thuận tay với công bóng trái tay có thể phát huy tối đa được uy lực tấn công toàn bàn. Đây là kỹ thuật chủ yếu của cách đánh tấn công hai bên. Các vận động viên bóng bàn có cách đánh các loại hình khác nhau đều phải nắm chắc kỹ thuật này.

* Công nhanh trái tay.

- Đặc điểm:

Vị trí đứng gần bàn, động tác nhỏ, tốc độ nhanh, điểm rơi linh hoạt, có kèm theo xoáy lên, có thể mượn lực bật lên của bóng đến để nâng cao tôc độ đánh trả , tạo cơ hội đập vụt. Trong thi đấu có thể dùng tấn công thay cho phòng thủ nhằm đối phó với tấn công của đối phương. Kỹ thuật này thường được sử dụng chủ yếu trong cách đánh tấn công hai bên.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng hơi lệch trái, thân người cách bàn khoảng 40-50cm, hai chân đứng ngang nhau hoặc chân phải hơi ra trước, hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân người xoay ra trước hoặc hơi xoay sang trái. (Với vận động viên vợt dọc cánh tay phải áp sát vào cạnh thân bên phải, khủy tay hơi đưa ra trước; vận động viên vợt ngang cánh tay phải không cần phải áp sát vào cạnh thân bên phải). Cánh tay co tự nhiên đưa vợt ra trước bụng hoặc lệch trái, cẳng tay xoay ngoài làm cho mặt vợt hơi nghiêng trước. Sau khi bóng đến bật rời khỏi mặt bàn, dựa vào cường độ xoáy lên của bóng đến dùng cẳng tay và cổ tay là chính vung vợt ra trước sang phải hoặc ra trước lên trên sang phải đón bóng. Khi bóng đến đang ở thời kỳ bật lên cao, dùng mặt vợt nghiêng trước đánh vào phần giữa và trên của bóng. Trong giây lát vợt đánh vào bóng dùng cẳng tay và cổ tay phát lực đánh vào bóng theo hướng ra trước sang phải hoặc ra trước lên trên sang phải đồng thời làm cho cẳng tay xoay ngoài.

Sau khi đánh, cẳng tay, cổ tay vung theo đà về phía trước vai phải và nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu.

Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể đặt lên hai chân hoặc chuyển từ chân trái sang chân phải.

* Vụt nhanh trái tay.

- Đặc điểm:

Vị trí đứng gần bàn, tốc độ bóng nhanh, đường bóng linh hoạt có kèm theo xoáy lên. Điểm đánh bóng ở trong bàn có tính đột kích. Đây là kỹ thuật mang tính tấn công dùng để đối phó với bóng trong bàn (bóng ngắn). Đó cũng là một kỹ thuật mà vận động viên cần phải nắm vững khi thực hiện đánh tấn công gần bàn.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Vị trí đứng áp sát bàn; Khi đánh trả góc lớn bên trái gần lưới, chân trái bước ra phía trước bên trái một bước; Khi đánh trả khu vực giữa hoặc lệch trái gần lưới, chân phải bước một bước nhỏ ra phía trước bên trái. Thân người cúi về phía bóng đến, tay phải co tự nhiên, cẳng tay duỗi trước đưa vợt vào bàn bóng. Nếu bóng đến xoáy lên hoặc không xoáy thì cẳng tay xoay ngoài, làm cho mặt vợt nghiêng trước hoặc vuông góc với mặt bàn. Khi bóng đến ở thời kỳ điểm cao thì đánh vào phần giữa lệch trên hoặc phần giữa của bóng.

Trong giây lát vợt đánh vào bóng, cẳng tay và cổ tay lấy dùng sức ra trước là chính (nếu bóng đến không xoáy có thể thích đáng dùng sức lên trên). Đồng thời ngón cái hơi thả lỏng, ngón trỏ ấn vợt, cẳng tay hơi xoay ngoài. Nếu bóng đến xoáy xuống thì cẳng tay xoay trong, làm cho mặt vợt ngửa sau, khi bóng ở thời điểm cao nhất thì đánh vào phần giữa lệch dưới của bóng. Trong giây lát vợt đánh vào bóng, dùng cẳng tay và cổ tay phát lực ra phía trước và lên trên kết hợp với cẳng tay xoay ngoài thỏa đáng.

Sau khi đánh vào bóng, tay vung vợt theo đà nhưng động tác cần nhỏ để có thể nhanh chóng lùi về tư thế chuẩn bị ban đầu.

* Giật nhanh trái tay.

- Đặc điểm:

Tốc độ bóng nhanh, đường vòng cung thấp nhưng dài, độ xoáy lên mạnh, sau khi bật lên khỏi bàn đối phương có lực xung trước lớn đồng thời trượt xuống dưới. Đây là biện pháp giành điểm chủ yếu của vận động viên giật bóng.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng hơi lệch sang trái, thân người cách bàn khoảng 40cm, chân phải hơi đứng ra trước (hoặc đứng ngang bằng), trọng tâm cơ thể rơi vào chân trái hoặc cả hai chân, hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân người hơi xoay sang trái, tay phải co tự nhiên, cẳng tay nâng lên và xoay ngoài, đưa vợt ra phía trước bên trái và hơi cao, mặt vợt nghiêng trước. Sau khi bóng đến bật lên khỏi mặt bàn, dùng lực của cẳng tay, cổ tay vung vợt ra phía trước sang phải là chính để đón bóng, đồng thời thân trên xoay sang phải.

Khi bóng đến ở thời điểm đi lên dùng mặt vợt nghiêng trước đánh vào phần giữa trên của bóng. Trong giây lát vợt đánh vào bóng dựa vào lực xoay của thân làm cho tay ngửa trước kéo giật bóng, đồng thời làm cho độ nghiêng trước của mặt vợt ổn định. Sau khi đánh bóng, cánh tay vung theo đà ra trước sang phải và nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu.

Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân trái sang chân phải hoặc rơi vào cả hai chân.

* Bạt nhanh trái tay.

- Đặc điểm:

Đứng gần bàn, động tác nhỏ, tốc độ bóng nhanh, đường bóng linh hoạt có kèm theo xoáy lên. Có thể mượng lực bật lên của bóng đến để nâng cao tốc độ bóng tạo ra cơ hội đập vụt. Trong thi đấu có thể dùng tấn công thay phòng thủ để đối phó với sự tấn công của đối phương. Đây là một trong những kỹ thuật thường dùng của vận động viên bóng bàn vợt ngang.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng ở vị trí lệch trái, thân người cách bàn khoảng 40cm, hai chân đứng dạng song song, hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân người xoay ra trước hoặc hơi xoay sang trái, tay phải co tự nhiên, đưa vợt ra trước bụng và hơi lệch trái, cẳng tay xoay ngoài làm cho mặt vợt hơi nghiêng trước, cổ tay làm động tác co và gập trong để chuẩn bị tốt cho động tác cổ tay đánh bóng.
Sau khi bóng đến bật lên khỏi mặt bàn, căn cứ vào mức độ xoáy lên khác nhau của bóng đến, lấy cẳng tay và cổ tay làm chính vung vợt ra trước bên phải hoặc ra trước lên trên sang phải để đón bóng.

Khi bóng vào thời kỳ đi lên, lấy mặt vợt nghiêng trước để đánh vào phần giữa và trên của bóng. Trong giây lát vợt đánh vào bóng cổ tay phát lực làm động tác mở ngoài và duỗi ngoài đồng thời làm cho cẳng tay xoay ngoài. Chú ý đến việc mượn lực bật lên của bóng đến.

Sau khi đánh bóng tay vung vợt theo đà về phía trước sang phải và nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu. Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể đặt lên cả hai chân hoặc chuyển từ chân trái sang chân phải.

* Phản công bóng cự ly trung bình và xa bàn trái tay.

- Đặc điểm:

Vị trí đứng hơi xa với bàn, động tác thực hiện rộng, sức mạnh lớn, đường bóng dài có kèm theo xoáy lên, có thể lợi dụng sức mạnh và điểm rơi biến hóa để giành điểm. Khi bị động có thể lấy tấn công thay phòng thủ, tiến hành phản công để tạo cơ hội đập vụt.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng cách bàn khoản 1m, chân phải hơi ra trước, trọng tâm rơi vào chân trái, hai gối hơi khụy, hóp bụng và ngực, thân người hơi xoay sang trái, tay phải co tự nhiên (vận động viên vợt dọc cánh tay phải ép sát vào bên phải thân người, khủy tay hơi nhô ra trước, vận động viên vợt ngang cánh tay phải không cần ép sát thân người) đưa vợt ra phía sau bên trái, cẳng tay xoay ngoài làm cho mặt vợt gần vuông góc với mặt đất. Khi bóng đối phương đánh sang bật lên tới điểm cao, cánh tay kéo theo cẳng tay vung vợt ra trước sang phải đón bóng, đồng thời lưng, lườn, háng kéo theo thân trên xoay sang phải. Khi bóng ở thời kỳ rơi xuống dùng mặt vợt vuông góc với mặt đất đánh vào phần giữa của bóng, đồng thời ma sát vào bóng theo hướng ra trước, lên trên và sang trái, Trong giây lát vợt đánh vào bóng dùng lực của cánh tay và cẳng tay là chính, có sự hỗ trợ của lực xoay thân. Sau khi đánh bóng, cánh tay vung vợt theo đà lên phía trên bên phải đồng thời nhanh chóng trở về tư thế thuẩn bị ban đầu. Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân trái sang chân phải.

* Vụt bóng trái tay.

- Đặc điểm:

Đứng ở vị trí gần bàn, động tác thực hiện rộng, sức mạnh lớn, tốc độ nhanh, bóng đi hơi xoáy lên có độ công kích mạnh. Đây là kỹ thuật tấn công có tính uy hiếp lớn khi đối phó với bóng cao, cao vừa và là biện pháp quan trọng giành điểm của các loại hình kỹ thuật tấn công (đặc biệt là cách đánh loại hình tấn công nhanh).

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng ở khu vực giữa hoặc lệch trái bàn, phần lớn đứng ở vị trí gần bàn, chân phải hơi ra trước, trọng tâm cơ thể rơi vào chân trái, hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân trên hơi xoay sang trái, tay phải co tự nhiên (vận động viên vợt dọc cánh tay phải áp sát bên phải thân người, khủy tay hơi nhô ra trước, vận động viên vợt ngang cánh tay phải không cần ép sát thân người), cẳng tay đưa ra sau và xoay ngoài để đưa vợt ra cạnh thân lệch sau bên trái, đồng thời làm cho mặt vợt hơi nghiêng ra trước. Sau khi bóng đến bật lên khỏi bàn, thân trên xoay sang bên phải, cùng lúc đó cánh tay phát lực kéo theo cẳng tay và cổ tay vung vợt ra phía trước sang phải đón bóng. Khi bóng ở thời kỳ điểm cao dùng mặt vợt hơi nghiêng trước đánh vào phần giữa và trên của bóng. Trong giây lát vợt đánh vào bóng, dùng lực của cánh tay và cẳng tay là chính đánh vào bóng theo hướng ra trước sang phải hoặc ra trước xuống dưới bên phải. Lưng, lườn, háng cũng tích cực dùng sức hỗ trợ khi phát lực đánh bóng. Sau khi đánh bóng, tay vung vợt theo đà ra trước sang phải và nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu. Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân trái sang chân phải.

Lưu ý: Nếu bóng đến xoáy xuống thì mặt vợt không nên quá nghiêng trước và có thể đánh vào phần giữa của bóng và tăng thêm lực hướng lên trên một cách thỏa đáng.

* Líp công trái tay.

- Đặc điểm:

Vị trí đứng hơi xa bàn, động tác nhỏ, tốc độ nhanh, đường bóng linh hoạt, có kèm theo xoáy lên. Chủ động phát lực đánh bóng, có thể tạo ra cơ hội đập vụt. Đây là kỹ thuật mang tính tấn công có hiệu quả nhất để đối phó với bóng xoáy xuống (đặc biệt là đối phó với cắt bóng).

Ngoài ra khi tập thành thạo líp công trái tay có thể giảm bớt số lần né người líp công, vì vậy có thể hạn chế hoặc tránh được hiện tượng để khoảng trống quá lớn ở bên phải. Đây cũng là kỹ thuật mà vận động viên loại hình tấn công gần bàn cần phải nắm vững.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng ở khu vực giữa hoặc lệch sang bên trái bàn, thân người cách bàn khoảng 50-60cm, chân phải đứng hơi ra trước, trọng tâm cơ thể rơi vào cả hai chân, hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân người hơi xoay sang trái, tay phải co tự nhiên (vận động viên vợt dọc cánh tay phải áp sát cạnh thân bên phải, khủy tay hơi nhô ra trước; vận động viên vợt ngang cánh tay phải không cần ép sát thân người) cẳng tay phải đưa sang trái đưa vợt xuống thấp phía trái thân người đồng thời cẳng tay xoay trong làm cho mặt vợt hơi ngửa sau. Đợi khi bóng bật lên khỏi mặt bàn đến vị trí cao, dùng lực của cánh tay, cẳng tay là chính vung vợt lên phía trên sang phải đón bóng phối hợp với thân trên xoay sang phải. Khi bóng bật lên ở thời kỳ đi xuống, dùng mặt vợt ngửa sau đánh vào phần giữa và dưới của bóng (nếu cường độ xoáy xuống của bóng đến nhỏ có thể đánh vào phần giữa của bóng). Trong giây lát vợt đánh vào bóng, dùng lực của cẳng tay đưa vợt tạo ma sát vào bóng theo hướng lên trên ra trước và sang phải làm cho bóng xoáy lên. Sau khi đánh bóng, tay vung vợt theo đà lên trên, ra trước, sang phải và nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu.

Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân trái sang chân phải.
__________________

5. Kỹ thuật giật bóng.

Giật bóng là một loại kỹ thuật tấn công có độ xoáy lên dữ dội, đường đi của bóng có độ vòng cung lớn, tỷ lệ bóng tốt (bóng vào bàn) cao, sau khi rơi xuống bàn lực bật mạnh có sức công kích lớn. Trong thi đấu vừa có thể chủ động công kích lại vừa có thể được sử dụng như kỹ thuật quá độ từ thế giằng co hoặc thế bị động sang thế tấn công.

Giật bóng có thể đánh trả một cách chắc chắn bóng thấp và bóng xoáy xuống, do đó so với tấn công nhanh nó có nhiều thời cơ để phát động tấn công. Giật bóng trình độ cao khi đối phó với tấn công nhanh, cắt bóng và các loại cách đánh khác đều có hiệu quả tương đối lớn. Do vợt ngang khi giật bóng thuận tay và trái tay đều thuận lợi, còn đối với vợt dọc khi giật bóng trái tay do góc độ nghiêng trước của mặt vợt khó đạt được yêu cầu nên những vận động viên có cách đánh lấy giật bóng làm chính phần lớn đều sử dụng vợt ngang.

Căn cứ vào sự khác nhau của vị trí đánh bóng, kỹ thuật giật bóng có thể phân chia thành: giật vồng trái tay, giật vồng thuận tay, né người giật vồng.

Căn cứ vào sự khác nhau về phương pháp đánh bóng và độ cao của đường cầu vồng có thể phân chia thành: giật vồng xoáy mạnh (còn gọi là bóng vồng trên cao) và giật vồng giật xung.

a. Kỹ thuật giật vồng thuận tay.

Đây là một trong những kỹ thuật chủ yếu của cách đánh giật vồng vợt dọc, giật vồng vợt ngang và cách đánh tấn công nhanh kết hợp giật vồng.

* Kỹ thuật giật vồng xoáy mạnh thuận tay.

- Đặc điểm:

Nếu so sánh với bóng tấn công nói chung thì vị trí đứng giật bóng hơi xa hơn, động tác hơi lớn, tốc độ hơi chậm, độ vòng cung lớn, bóng có độ xoáy lên mạnh. Đường vồng thứ nhất tương đối cao, đường vồng thứ hai tương đối thấp, sau khi rơi xuống chạm bàn lao về phía trước đồng thời rơi trượt xuống dưới. Đối phương đánh trả không thỏa đáng dễ xuất hiện bóng cao hoặc ra ngoài bàn. Nói chung dùng giật bóng để đối phó với bóng xoáy xuống có thể tạo ra cơ hội đập vụt.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng ở vị trí cách bàn khoảng 60cm, chân trái đứng hơi ra trước, trọng tâm cơ thể đặt lên chân phải, hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân người hơi xoay sang phải, vai phải hơi hạ thấp, tay phải co tự nhiên, cẳng tay đưa ra sau và hạ thấp, đưa vợt xuống phía dưới sau bên phải thân, đồng thời xoay trong làm cho mặt vợt hơi nghiêng trước. Đợi khi bóng bật lên đang ở thời điểm cao thì dùng lực của cánh tay, cẳng tay làm chính vung vợt lên phía trên và ra trước đón bóng (cùng lúc với xoay thân sang bên trái).

Ở thời điểm bóng bật bàn đi xuống, dùng mặt vợt hơi nghiêng trước đánh vào phần giữa lệch trên của bóng. Trong giây lát vợt đánh vào bóng mũi bàn chân phải đạp đất, lườn và háng bên phải xoay sang bên trái để trợ lực. Cẳng tay với sự kéo theo của cánh tay phát lực đưa vợt ma sát vào bóng theo hướng lên trên và ra trước sang trái. Cần phải sử dụng đầy đủ sức mạnh của cổ tay làm cho bóng xoáy lên mạnh mẽ.

Sau khi đánh bóng, cánh tay vung vợt theo đà ra trước lên trên sang trái và nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu. Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân phải sang chân trái.

* Kỹ thuật giật vồng giật xung thuận tay.

- Đặc điểm:

Tốc độ bóng nhanh, đường vồng thấp nhưng dài, bóng có độ xoáy lên mạnh, sau khi bật lên khỏi bàn có xung lực lao trước lớn đồng thời trượt xuống dưới. Đây là biện pháp giành điểm chủ yếu của vận động viên giật bóng.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Vị trí đứng cần dựa vào vị trí của bóng đến mà xác định. Chân trái đứng hơi ra trước, trọng tâm cơ thể dồn lên chân phải, hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân trên hơi xoay sang phải. Cánh tay tách khỏi thân người, tay phải cầm vợt đưa xuống phía dưới bên phải thân để vợt cao ngang mặt bàn đồng thời cẳng tay xoay trong làm cho mặt vợt nghiêng trước.

Sau khi bóng đến bật lên khỏi mặt bàn, dùng lực của cẳng tay là chính vung vợt về phía trước và lên trên để đón bóng. Cùng lúc thân trên cũng xoay sang bên trái. Khi bóng đến ở thời điểm cao nhất hoặc bắt đầu đi xuống dùng mặt vợt nghiêng trước đánh vào phần giữa và trên của bóng.

Trong giây lát vợt đánh vào bóng dùng phát lực của cẳng tay là chính đưa vợt theo hướng ra trước lên trên để ma sát vào bóng, kết hợp với vận dụng động tác và sức mạnh của cổ tay làm cho bóng xoáy mạnh lên trên. Sau khi đánh bóng, tay vung vợt theo đà lên trên ra trước và nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu.

Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân phải sang chân trái.

* Kỹ thuật giật vồng xoáy nghiêng thuận tay.

- Đặc điểm:

Về cơ bản cũng giống với giật vồng xoáy mạnh thuận tay. Chỉ khác là sau khi bóng đánh ra có xu hướng xoáy lên xoáy nghiêng bên phải mạnh. Trong quá trình bay bóng quẹo sang bên trái. Khi chạm mặt vợt đối phương bóng sẽ bắn sang bên phải, tăng thêm độ khó cho việc đánh trả của đối phương.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Về cơ bản cũng giống với giật vồng xoáy mạnh thuận tay, điểm khác nhau ở đây là mặt vợt nghiêng sang trái đánh vào phần giữa bên phải hoặc phần dưới bên phải của bóng. Ngoài ma sát lên trên ra , còn phải tăng thêm sức mạnh ma sát vào bóng theo hướng ra trước sang phải làm cho bóng sản sinh xoáy nghiêng lên bên phải mạnh mẽ.

b. Né người giật vồng thuận tay.

- Đặc điểm:

Khi gặp trường hợp bóng đến nửa bàn bên trái, không dùng kỹ thuật trái tay để đánh trả mà di chuyển nhanh ra ngoài góc trái bàn, né người và dùng kỹ thuật giật vồng thuận tay đánh trả. Từ đó đạt được việc phát huy uy lực của giật vồng thuận tay ở vị trí nửa trái bàn. Đây là một trong những kỹ thuật thường dùng của các vận động viên bóng bàn có cách đánh giật vồng vợt dọc.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Trước tiên cần nhanh chóng di chuyển ra ngoài góc trái bàn, thân người nghiêng về bàn, chân trái đứng ra trước, thân trên hơi cúi về trước và hóp bụng. Căn cứ vào tình hình bóng đánh đến để sử dụng các kỹ thuật giật vồng thuận tay đánh bóng cho thỏa đáng, khi đánh bóng cần dựa vào sự khác nhau về điểm rơi và tính chất của bóng đến để điều chỉnh hợp lý vị trí đưa vợt và phương hướng vung vợt....
__________________
 

choctietlon

Super Moderators
Tiếp theo

c. Kỹ thuật giật vồng trái tay.

Kỹ thuật giật vồng trái tay là một trong những kỹ thuật chủ yếu của cách đánh giật vồng vợt ngang. Vận động viên có cách đánh tấn công nhanh kết hợp giật vồng cũng đòi hỏi phải nắm vững kỹ thuật này.

* Kỹ thuật giật vồng xoáy mạnh trái tay.

- Đặc điểm

Cũng giống với giật vồng xoáy mạnh thuận tay, nhưng phần lớn là các vận động viên vợt ngang sử dụng.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Vị trí đứng ở vị trí giữa hoặc lệch sang bên trái bàn, thân người cách bàn khoảng 60cm hoặc xa hơn một chút. Chân phải hơi đứng ra trước hoặc đứng song song, trọng tâm cơ thể rơi vào cả hai chân, hai gối hơi co, thân trên hơi xoay sang trái. Tay phải co tự nhiên, cẳng tay đưa sang trái và hạ thấp đưa vợt xuống phía trái thân người, đồng thời cẳng tay xoay ngoài làm cho mặt vợt nghiêng trước. Đợi khi bóng đến bật lên khỏi bàn đến điểm cao thì cánh tay vung vợt lên trên và ra trước đón bóng. Cùng lúc với nâng thân trên xoay sang phải.

Khi bóng đến ở thời điểm đi xuống, dùng mặt vợt hơi nghiêng trước đánh vào phần giữa hơi lệch trên của bóng. Trong giây lát vợt đánh vào bóng lấy cẳng tay phát lực là chính ma sát vào bóng theo hướng lên trên và hơi ra trước, đồng thời nâng gót chân lên kết hợp với lưng, lườn và háng xoay nâng lên trên sang phải trợ lực cho động tác tay làm cho bóng xoáy lên mạnh hơn. Sau khi đánh bóng, cánh tay vung vợt theo đà lên trên ra trước và nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu.

* Kỹ thuật giật vồng giật xung trái tay.

- Đặc điểm:

Cũng giống với giật vồng giật xung thuận tay, nhưng kỹ thuật này thường được phần lớn các vận động viên vợt ngang sử dụng.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Vị trí đứng cần căn cứ vào vị trí của bóng đến mà xác định, chân phải đứng hơi ra trước, trọng tâm cơ thể rơi vào chân trái, hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, lưng, lườn, háng và thân trên hơi xoay sang trái, tay phải co tự nhiên, khủy tay áp sát thân người, tay cầm vợt đưa sang bên trái thân và lệch dưới. Đồng thời cẳng tay xoay ngoài làm cho mặt vợt nghiêng trước. Đợi khi bóng đến bật lên khỏi mặt bàn thì dùng lực của cẳng tay là chính vung vợt ra trước lên trên để đón bóng. Cùng lúc xoay thân trên sang phải. Ở thời điểm bóng cao hoặc thời điểm bóng bắt đầu đi xuống, dùng mặt vợt nghiêng trước đánh vào phần giữa trên của bóng. Trong giây lát vợt đánh vào bóng, lấy cẳng tay phát lực là chính đưa vợt ma sát vào bóng theo hướng ra trước và lên trên, sau đó nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu.

Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân trái sang chân phải.

* Kỹ thuật giật vồng xoáy nghiêng trái tay.

- Đặc điểm:

Trên cơ bản giống với giật vồng xoáy ngang trái tay. Chỉ khác là sau khi bóng đánh đi có kèm theo xoáy lên nghiêng trái rất mạnh, trong khi bóng bay sẽ quẹo phải. Khi bóng tiếp chạm mặt vợt đối phương thường bắn lệch sang bên trái, tăng thêm độ khó cho đối phương khi đánh trả.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Cơ bản kỹ thuật động tác giống với giật vồng xoáy ngang trái tay, điểm khác nhau là mặt vợt nghiêng sang bên phải, đánh vào phần giữa bên trái của bóng hoặc phần dưới bên trái của bóng, ngoài ma sát vào bóng theo hướng từ dưới lên trên còn phải tăng thêm sức mạnh ma sát vào bóng theo hướng ra trước sang trái làm cho bóng sản sinh xoáy lên xoáy nghiêng bên trái mạnh.

d. Kỹ thuật giật vồng nhỏ, vợt mút gai.

- Đặc điểm:

Đây là kỹ thuật giật bóng vồng được thực hiện bằng vợt mút gai. Do vợt mút gai có độ dính bóng nhỏ hơn vợt mút dán ngược, bởi vậy bóng giật vồng có cường độ xoáy nhỏ, tôc độ bóng và lực xung trước sau khi bóng chạm bàn đều kém bóng giật vồng bằng vợt mút dán ngược.

Đây là một loại kỹ thuật bổ trợ của lối đánh tấn công nhanh đối phó với bóng xoáy xuống.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Trên cơ bản giống với giật vồng vợt mút dán ngược. Điểm khác biệt là ở chỗ vị trí đứng của vận động viên khi đứng khi giật vồng bằng vợt gai tương đối gần bàn, động tác nhỏ, dùng cẳng tay phát lực là chính. Khi đánh bóng góc độ mặt vợt không được quá nghiêng trước....
__________________
 

choctietlon

Super Moderators
6. Kỹ thuật gò bóng.

Gò bóng là một loại kỹ thuật tương đối chắc chắn khi đánh trả bóng xoáy xuống gần bàn và trong bàn. Các loại hình cách đánh đều không thể thiếu kỹ thuật này.

Gò bóng thường có sức mạnh nhỏ, tốc độ chậm, độ xoáy và điểm rơi biến hóa nhiều, đường bóng ngắn.

Bóng sau khi bật lên tại bàn đối phương phần lớn là ở trong bàn, thiếu lực tiến ra trước, vì vậy đối phương không dễ dàng phát động tấn công. Cho nên có thể sử dụng kỹ thuật này để quá độ, chờ đợi, tìm kiếm hoặc tạo ra cơ hội tấn công cho mình.

Vì động tác gò bóng tương tự như cắt bóng lại tương đối dễ tập nên có thể coi đây như kỹ thuật nhập môn của cắt bóng.

Chủng loại của gò bóng rất nhiều. Dựa vào sự khác nhau của vị trí đánh bóng có thể chia thành: Gò bóng thuận tay và gò bóng trái tay. Dựa vào sự sớm muộn của thời điểm đánh vào bóng có thể chia thành: Gò nhanh và gò chậm. Dựa vào sự khác nhau về cường độ xoáy của bóng có thể chia thành: Gò xoáy và gò không xoáy. Dựa vào sự khác nhau về phương hướng của đường xoáy có thể chia thành: gò xoáy xuống và gò xoáy lên…

a. Kỹ thuật gò bóng trái tay.

Do phần lớn vận động viên (đặc biệt là vận động viên dùng vợt dọc) tấn công thuận tay tương đối mạnh, tấn công trái tay tương đối yếu. Cho nên gò bóng trái tay có tỷ lệ sử dụng cao hơn gò bóng thuận tay.

* Kỹ thuật gò nhanh trái tay.

- Đặc điểm:

Động tác nhỏ, nhịp độ và tốc độ đánh bóng tương đối nhanh, đường vòng cung thấp và có kèm theo xoáy xuống. Do đó có thể rút ngắn thời gian chuẩn bị đánh bóng của đối phương, có thể kết hợp với gò bóng chậm, có thể thay đổi nhịp độ gò bóng để tạo điều kiện tấn công đập vụt.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng ở vị trí hơi lệch trái bàn, thân người cách bàn khoảng 40cm, chân phải hơi lên trước, hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân người cúi ra trước và hơi xoay sang trái, tay phải co tự nhiên, cẳng tay hơi xoay trong, đưa vợt lên phía trên trước bên trái cơ thể làm cho mặt vợt hơi ngửa sau.

Sau khi bóng đến bật lên hỏi mặt bàn, cẳng tay và cổ tay vung vợt xuống phía dưới trước sang phải để đón bóng. Ở thời điểm bóng đi lên thì đánh vào phần giữa dưới của bóng. Trong giây lát vợt đánh vào bóng, cẳng tay và cổ tay dùng lực một cách thỏa đáng làm cho vợt ma sát vào bóng theo hướng xuống dưới ra trước sang phải. Cần chú ý lợi dụng lực bật lên của bóng đến.
Sau khi đánh bóng tay vung vợt theo đà xuống phía dưới trước bên phải đồng thời nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu. Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân trái sang chân phải.

* Kỹ thuật gò chậm trái tay.

- Đặc điểm:

Động tác tương đối lớn, nhịp độ đánh bóng và tốc độ bóng chậm có kèm theo xoáy xuống. Đây là một loại kỹ thuật gò bóng chắc chắn nhất, đối phương không dễ dàng phát động tấn công. Có thể kết hợp gò nhanh và gò ngắn, cũng như biến hóa có hiệu quả nhịp độ và điểm rơi đánh bóng làm tăng thêm độ khó cho đối phương khi đánh trả để tranh thủ giành thế chủ động và tạo ra cơ hội tấn công.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng ở vị trí khu vực giữa hoặc hơi lệch trái bàn, thân người cách bàn khoảng 50cm, chân phải hơi lên trước, hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân người hơi xoay sang trái, tay phải co tự nhiên, cẳng tay hơi nâng lên và xoay trong, đưa vợt lên phía trên bên trái cơ thể làm cho mặt vợt hơi ngửa sau.

Sau khi bóng đến bật lên hỏi mặt bàn và bay đến vị trí cao, cẳng tay và cổ tay vung vợt ra trước xuống dưới và sang phải để đón bóng. Ở thời điểm bóng đi xuống thì đánh vào phần giữa và dưới của bóng. Trong giây lát vợt đánh vào bóng, cẳng tay và cổ tay dùng lực làm cho vợt ma sát vào bóng theo hướng ra trước, xuống dưới và sang phải. Sau khi đánh bóng tay vung vợt theo đà về phía trước bên phải và xuống dưới, đồng thời nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu.

Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân trái sang chân phải.

* Kỹ thuật gò bóng xoáy nghiêng trái tay.

- Đặc điểm:

Tôc độ chậm, đường vòng cung thấp có kèm theo xoáy nghiêng bên phải. Đối phương khi đánh trả dễ đánh bóng ra ngoài về phía bên phải hoặc đánh trả bóng cao. Từ đó tạo thuận lợi cho bản thân tấn công giành điểm.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng hơi lệch sang bên trái bàn, thân người cách bàn khoảng 50cm, chân phải hơi lên trước, hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân người xoay ra trước hoặc hơi xoay sang trái, tay phải co tự nhiên, cẳng tay nâng lên và xoay trong, đưa vợt lên phía trên bên trái cơ thể làm cho mặt vợt hơi ngửa sau.

Sau khi bóng đến bật lên hỏi mặt bàn, cẳng tay và cổ tay vung vợt ra phía trước để đón bóng. Ở thời điểm bóng cao nhất hoặc bóng bắt đầu đi xuống thì dùng mặt vợt ngửa sau đánh vào phần giữa và dưới của bóng. Trong giây lát vợt đánh vào bóng, cẳng tay và cổ tay dùng lực làm cho vợt ma sát vào bóng theo hướng ra trước sang phải. Sau khi đánh bóng tay vung vợt theo đà về phía trước sang phải, đồng thời nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu.

Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân trái sang chân phải.

b. Kỹ thuật gò bóng thuận tay.

Do đa số vận động viên bóng bàn năng lực tấn công thuận tay tương đối mạnh (đặc biệt là các vận động viên vợt dọc) cho nên tỷ lệ người sử dụng gò bóng thuận tay thường ít hơn số người sử dụng gò bóng trái tay. Khi gặp phải đường bóng xoáy xuốngở nửa bên phải bàn không dễ tấn công thì sử dụng gò bóng thuận tay để đánh trả sẽ tương đối chắc chắn hơn.

* Kỹ thuật gò bóng nhanh thuận tay.

- Đặc điểm:

Động tác nhỏ, nhịp độ và tốc độ đánh bóng tương đối nhanh, đường vòng cung thấp và có kèm theo xoáy xuống. Do đó có thể rút ngắn thời gian chuẩn bị đánh bóng của đối phương, có thể kết hợp với gò bóng chậm, có thể thay đổi nhịp độ gò bóng để tạo điều kiện tấn công đập vụt.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng lệch sang bên trái, thân người cách bàn khoảng 40cm, chân trái ra trước, hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân người hơi xoay sang phải, cẳng tay hơi xoay ngoài, đưa vợt lên phía trên trước bên phải cơ thể làm cho mặt vợt hơi ngửa sau.

Sau khi bóng đến bật lên hỏi mặt bàn, cẳng tay và cổ tay vung vợt ra phía dưới, trước để đón bóng. Khi bóng còn ở thời điểm đi lên thì dùng mặt vợt ngửa sau đánh vào phần giữa và dưới của bóng. Trong giây lát vợt đánh vào bóng, cẳng tay và cổ tay dùng sức thỏa đáng làm cho vợt ma sát vào bóng theo hướng ra trước, xuống dưới sang trái. Chú ý lợi dụng sức bật lên của bóng đến. Sau khi đánh bóng tay vung vợt theo đà về phía dưới trước sang trái, đồng thời nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu.

Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân phải sang chân trái.

* Kỹ thuật gò bóng chậm thuận tay.

- Đặc điểm:

Động tác tương đối lớn, nhịp độ đánh bóng và tốc độ bóng chậm có kèm theo xoáy xuống. Đây là một loại kỹ thuật gò bóng chắc chắn nhất, đối phương không dễ dàng phát động tấn công. Có thể kết hợp gò nhanh và gò ngắn, cũng như biến hóa có hiệu quả nhịp độ và điểm rơi đánh bóng làm tăng thêm độ khó cho đối phương khi đánh trả để tranh thủ giành thế chủ động và tạo ra cơ hội tấn công.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng ở vị trí hơi lệch trái bàn, thân người cách bàn khoảng 50cm, chân trái hơi lên trước, hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân người hơi xoay sang phải, tay phải co tự nhiên, cẳng tay hơi nâng lên và xoay ngoài, đưa vợt lên phía trên bên phải thân người làm cho mặt vợt hơi ngửa sau.

Sau khi bóng đến bật lên hỏi mặt bàn, cẳng tay và cổ tay vung vợt xuống phía dưới, trước và sang trái để đón bóng. Ở thời điểm bóng bật bàn và bắt đầu đi xuống thì đánh vào phần giữa và dưới của bóng. Trong giây lát vợt đánh vào bóng, cẳng tay và cổ tay dùng lực làm cho vợt ma sát vào bóng theo hướng ra trước, xuống dưới và sang trái. Sau khi đánh bóng tay vung vợt theo đà về phía trước bên phải và xuống dưới, đồng thời nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu.

Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân phải sang chân trái.

* Kỹ thuật gò bóng xoáy nghiêng thuận tay.

- Đặc điểm:

Tốc độ bóng chậm, đường vòng cung thấp có kèm theo xoáy nghiêng bên trái. Đối phương khi đánh trả dễ ra ngoài ở phía bên trái hoặc đánh trả bóng cao, từ đó tạo cơ hội tấn công cho mình.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng hơi lệch sang bên trái bàn, thân người cách bàn khoảng 50cm, chân phải hơi lên trước, hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân người xoay ra trước hoặc hơi xoay sang phải, tay phải co tự nhiên, cẳng tay nâng lên và xoay ngoài, đưa vợt lên phía trước bên phải cơ thể làm cho mặt vợt hơi ngửa sau.

Sau khi bóng đến bật lên hỏi mặt bàn, cẳng tay và cổ tay vung vợt ra phía trước sang trái đón bóng. Ở thời điểm bóng cao nhất hoặc bóng bắt đầu đi xuống thì dùng mặt vợt ngửa sau đánh vào phần giữa và dưới của bóng. Trong giây lát vợt đánh vào bóng, cẳng tay và cổ tay dùng lực làm cho vợt ma sát vào bóng theo hướng ra trước sang trái. Sau khi đánh bóng tay vung vợt theo đà về phía trước sang phải, đồng thời nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu.

Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân phải sang chân trái.

c. Kỹ thuật gò bóng vẩy ngắn (vuốt bóng)

- Đặc điểm:

Động tác nhỏ, tốc độ bóng nhanh, đường vòng cung thấp, đường bóng ngắn, điểm rơi gần lưới, có thể hạn chế sức tấn công của đối phương. Kỹ thuật này chủ yếu được dùng để đối phó với đường bóng xoáy xuống gần lưới.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Trên cơ bản kỹ thuật động tác giống với gò bóng nhanh. Điểm khác nhau là so với gò bóng nhanh thì nói chung các động tác phải nhanh hơn nữa. Khi bóng đến chạm bàn, tay cầm vợt phải nhanh chóng đón bóng làm cho mặt vợt hơi ngửa sau. Khi bóng đến vừa bật lên khỏi mặt bàn thì dùng lực của cẳng tay và cổ tay ma sát vợt nhẹ vào phần giữa và dưới bên cạnh của bóng theo hướng ra trước làm cho bóng bay nhẹ và rơi vào sát lưới ở bàn của đối phương.

d. Kỹ thuật gò bóng xoáy mạnh và không xoáy.

- Đặc điểm:

Cố gắng hết mức dùng phương pháp tay giống nhau để gò bóng sang có xoáy mạnh và không xoáy làm cho đối phương khó phán đoán cường độ xoáy của bóng. Khi đối phương đánh trả dễ xuất hiện bóng chúc lưới hoặc đánh bóng cao, từ đó tạo cơ hội tấn công.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Khi gò bóng xoáy mạnh cần tăng nhiều góc độ ngửa vợt. Trong giây lát vợt tiếp xúc bóng cần phát huy tối đa sức mạnh của cẳng tay và cổ tay với tốc độ nhanh ma sát vợt vào giữa và dưới bóng theo hướng ra trước và xuống dưới. Khi gò bóng “không xoáy” có thể giảm nhiều góc độ ngửa vợt. Trong giây lát vợt đánh vào bóng tốc độ vẩy (vuốt) của vợt cần chậm một chút, dùng mặt vợt chạm nhẹ bóng đẩy ra phía trước để giảm thiểu sức mạnh ma sát vợt vào bóng. Sau khi bóng rời khỏi vợt, cẳng tay và cổ tay dùng sức nhanh mạnh để tăng thêm tốc độ vuốt bóng, làm cho động tác gò bóng không xoáy giống với động tác gò bóng xoáy mạnh.....

7. Kỹ thuật cắt bóng.

Cắt bóng là kỹ thuật chủ yếu của cách đánh kết hợp tấn công với cắt bóng. Đây là loại kỹ thuật có thời gian đánh vào bóng muộn, tốc độ bóng chậm, tỷ lệ bóng tốt cao, sự biến hóa về độ xoáy và điểm rơi phong phú, đối phương khó phát lực khi tấn công. Vì vậy mà có thể trong lúc cắt bóng thừa cơ phản công.

Kỹ thuật cắt bóng có thể dựa vào vị trí đánh bóng mà có thể chia thành: cắt bóng thuận tay và cắt bóng trái tay. Dựa vào độ gần xa của vị trí đứng so với bàn mà chia thành: cắt bóng gần bàn và cắt bóng xa bàn. Dựa vào mức độ xoáy khác nhau của bóng mà có thể chia thành: cắt bóng xoáy và cắt bóng không xoáy. Dựa vào vị trí bóng đến và tính năng của bóng khác nhau có thể chia thành: cắt bóng đuổi người, cắt bóng đột kích, cắt bóng giật vồng xoáy ngang, cắt bóng giật vồng giật xung…

a. Kỹ thuật cắt bóng thuận tay.

Cắt bóng thuận tay là kỹ thuật thường dùng chủ yếu của vận động viên cắt bóng.

- Đặc điểm:

Động tác tương đối nhỏ, điểm đánh bóng tương đối cao, nhịp độ đánh bóng và tốc độ của bóng tương đối nhanh và có kèm theo xoáy xuống. Đường bóng và điểm rơi biến hóa nhiều, có thể rút ngắn thời gian chuẩn bị đánh bóng của đối phương đồng thời làm cho đối phương phải di chuyển phải, trái để đánh bóng nên có thể tạo được cơ hội tấn công hoặc trực tiếp giành điểm.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Vị trí đứng tùy thuộc vào vị trí của bóng đến mà xác định, nói chung cách bàn khoảng 1m. Chân trái đứng hơi ra trước, trọng tâm cơ thể rơi vào chân phải, hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân người hơi xoay sang phải. Cánh tay phải co tự nhiên, cẳng tay hơi nâng lên phía trên bên phải đồng thời xoay ngoài, đưa vợt lên phía trên bên phải thân người làm cho mặt vợt hơi ngửa sau.

Khi bóng đến bật lên khỏi mặt bàn và đang ở cuối thời kỳ đi lên thì thân người xoay sang bên trái, cẳng tay và cổ tay vung vợt về phía trước xuống dưới bên trái. Khi bóng ở thời kỳ điểm cao hoặc trước khi đi xuống thì vợt đánh vào phần giữa lệch dưới của bóng. Trong giây lát vợt đánh vào bóng cẳng tay và cổ tay với sự kéo theo của cánh tay sẽ dùng lực nhịp nhàng làm cho mặt vợt ma sát vào bóng theo hướng ra trước, xuống dưới sang trái. Sau khi đánh bóng tay vung vợt theo đà xuống dưới phía trước sang trái, đồng thời nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu. Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân phải sang chân trái.

* Kỹ thuật cắt bóng xa bàn thuận tay.

- Đặc điểm:

Động tác tương đối lớn, điểm đánh bóng thấp, nhịp độ đánh bóng và tốc độ bóng tương đối chậm, đường bay vòng cung tương đối dài, dùng biến đổi độ xoáy làm chính phối hợp với biến đổi đường bóng và điểm rơi để tranh thủ giành chủ động và tạo cơ hội tấn công giành điểm trực tiếp.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Vị trí đứng tùy thuộc vào vị trí của bóng đến mà xác định, nói chung cách bàn khoảng 1m. Chân trái đứng hơi ra trước, trọng tâm cơ thể rơi vào chân phải, hai gối hơi co, hóp bụng và ngực, thân người hơi xoay sang phải. Cánh tay phải co tự nhiên, cẳng tay hơi nâng lên phía trên bên phải đồng thời xoay ngoài, đưa vợt lên phía trên bên phải thân người làm cho mặt vợt hơi ngửa sau.

Khi bóng đến bật lên khỏi mặt bàn đến thời điểm giữa của thời kỳ đi xuống thì thân người xoay sang bên trái, đồng thời cẳng tay và cổ tay vung vợt về phía trước xuống dưới bên trái đón bóng . Khi bóng ở thời kỳ điểm cuối giai đoạn đi xuống thì vợt đánh vào phần giữa lệch dưới của bóng. Trong giây lát vợt đánh vào bóng cẳng tay và cổ tay dùng lực làm cho mặt vợt ma sát vào bóng theo hướng ra trước, xuống dưới sang trái.

Chú ý lợi dụng sức mạnh của thân người khi xoay sang trái. Sau khi đánh bóng tay vung vợt theo đà xuống dưới phía trước sang trái, đồng thời nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu. Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân phải sang chân trái.

* Kỹ thuật cắt bóng đuổi người thuận tay.

- Đặc điểm:

Bóng đến xiết gần thân người, cần phải nhanh chóng di chuyển sang trái để nhường chỗ mới thuận lợi cho cắt bóng thuận tay.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Bóng đến xiết gần vào giữa hoặc lệch phải gần cơ thể, chân phải đòi hỏi phải nhanh chóng di chuyển ra phía sau bên trái, đồng thời nghiêng lườn, hóp bụng và xoay người sang phải, cánh tay áp sát bên phải thân, cẳng tay nhanh chóng nâng lên và xoay ngoài đưa vợt lên phía trên bên phải thân người làm cho mặt vợt hơi ngửa sau. Sau đó nhanh chóng vung vợt xuống dưới, ra trước đón bóng. Khi bóng ở thời điểm đi xuống thì đánh vào phần giữa dưới của bóng. Trong giây lát vợt đánh vào bóng lấy cẳng tay và cổ tay phát lực là chính vung vợt về phía trước và xuống dưới. Sau khi đánh bóng tay vung vợt theo đà xuống dưới và ra trước, đồng thời nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu.

Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể do chuyển dịch không kíp nên vẫn ở trên chân phải.

* Kỹ thuật cắt bóng đột kích thuận tay.

- Đặc điểm:

Do bóng đột kích có sức mạnh lớn, tốc độ nhanh nên cắt bóng đột kích thường ở vào điều kiện phòng thủ bị động. Đặc biệt là do đường bóng đột kích đều là đường bóng được tiến hành sau khi phát bóng và sau khi bỏ nhỏ bóng ngắn hoặc trong gò bóng và líp bóng có sự khác biệt rất lớn về tính năng và điểm rơi giữa cẳt bóng với đột kích, từ đó làm tăng thêm rất nhiều về độ khó cắt bóng.

Do đó cắt bóng đột kích cần phải phán đoán chính xác, di chuyển bước nhanh, nắm vững góc độ mặt vợt và phương hướng dùng sức mới có thể chống đỡ được thế tấn công của bóng đến, tranh thủ giành quyền chủ động.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Căn cứ vào bóng đến để nhanh chóng lùi ra sau, chân trái hơi đứng ra trước, tay phải co tự nhiên, cẳng tay nâng lên và xoay ngoài, đưa vợt lên phía trên trước bên phải thân làm cho mặt vợt tiếp cận vuông góc với mặt đất. Khi bóng đến bật lên khỏi bàn tới vị trí cao, tay cầm vợt nhanh chóng vung xuống dưới đón bóng. Khi bóng đến ở thời kỳ đi xuống, dùng mặt vợt gần vuông góc với mặt đất đánh vào phần giữa của bóng. Toàn bộ cánh tay dùng lực ma sát vào bóng theo hướng từ trên xuống dưới sang trái để miết bóng. Mượn lực bật trở lại của bóng đến để đánh trả.

Sau khi đánh bóng tay vung vợt theo đà về phía dưới ra trước sang trái đồng thời nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu. Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân phải sang chân trái.

* Kỹ thuật cắt bóng giật xoáy mạnh thuận tay.

- Đặc điểm:

Do bóng đến có độ xoáy lên rất mạnh, đường vòng cung lớn nên thời gian đánh cắt bóng muộn. Điểm đánh vào bóng thấp, động tác lớn. Cần chú ý khắc phục và lợi dụng lực bật trở lại theo hướng lên trên của bóng đến.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng cách xa bàn khoảng trên 1m, chân trái đứng hơi ra trước, thân người hơi xoay sang phải, tay phải co tự nhiên, cẳng tay nâng lên phía trên ra sau bên phải đồng thời xoay trong đưa vợt lên trên ra sau sang phải thân, biên độ đưa vợt tương đối lớn, đồng thời làm cho mặt vợt gần vuông góc hoặc hơi ngửa sau. Khi bóng đến bật lên khỏi bàn ở giữa thời điểm đi xuống, tay cầm vợt nhanh chóng vung vợt xuống dưới ra trước đón bóng. Cùng lúc, thân người xoay sang trái.

Khi bóng ở cuối thời điểm đi xuống, dùng mặt vợt ngửa sau hoặc gần vuông góc với mặt đất đánh vào phần giữa dưới hoặc phần giữa của bóng. Trong giây lát vợt đánh vào bóng chủ yếu là dùng cánh tay kéo theo cẳng tay tạo lực hướng xuống dưới và tăng cường dùng sức ra phía trước, đồng thời chú ý mượn lực bật trở lại theo hướng lên trên của bóng đến để cắt trả bóng. Khi cắt trẳ bóng, cổ tay cần giữ tương đối ổn định.

Sau khi đánh bóng tay vung vợt theo đà ra trước và xuống dưới đồng thời nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu.

* Kỹ thuật cắt bóng giật vồng, giật xung thuận tay.

- Đặc điểm:

Do bóng đến xoáy lên rất mạnh, đường vòng cung nhỏ, sau khi rơi xuống mặt bàn lực xung ra trước lớn nên thời gian cắt đánh bóng muộn, điểm đánh bóng thấp, động tác lớn. Cần chú ý khắc phục và lợi dụng lực bật lên và lực xung trước của bóng đến.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng ở vị trí cách xa bàn khoảng trên 1m, thân người hơi xoay sang phải, tay phải co tự nhiên, cẳng tay nâng sang bên phải và hơi xoay trong, đưa vợt lên trên phía sau bên phải cơ thể. Biên độ đưa vợt tương đối lớn, cự ly tương đối dài. Đồng thời làm cho mặt vợt gần vuông góc với mặt đất hoặc hơi ngửa sau.

Từ thời điểm bóng bật lên khỏi mặt bàn đến giữa thời kỳ bóng đi xuống tay cầm vợt vung xuống dưới ra trước đón bóng. Cùng lúc thân người xoay sang trái. Ở cuối thời kỳ bóng đi xuống, dùng mặt vợt gần vuông góc với mặt đất hoặc hơi ngửa sau đánh vào phần giữa hoặc phần giữa lệch dưới của bóng đến.

Trong giây lát vợt đánh vào bóng thân người xoay sang trái, dùng sức chủ yếu của cánh tay, cẳng tay và cổ tay hướng xuống dưới ra trước cắt bóng, có sự nghiêng thân, co gối bổ trợ dùng sức xuống dưới, đồng thời phải chú ý mượn lực bật lên và xung trước của bóng đến để cắt trả bóng. Khi cắt bóng cổ tay cần giữ tương đối ổn định. Sau khi đánh bóng tay vung vợt theo đà xuống dưới ra trước đồng thời nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu.
Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân phải sang chân trái...


* Kỹ thuật cắt bóng trái tay.

Đây là kỹ thuật thường dùng của vận động viên bóng bàn khi vận dụng kết hợp tấn công và cắt bóng.

Kỹ thuật cắt bóng này cũng giống với kỹ thuật cắt bóng thuận tay và cũng có thể chia ra thành: cắt bóng gần, cắt bóng xa, cắt bóng đuổi thân, cắt bóng đột kích, cắt bóng giật vồng xoáy mạnh, cắt bóng giật vồng giật xung.

Đặc điểm động tác của các loại kỹ thuật này cơ bản cũng giống với các kỹ thuật cắt bóng thuận tay. Điểm khác biệt là ở chỗ phương hướng thực hiện ngược nhau giữa phải và trái. Ngoài ra điểm cắt bóng của vợt ngang trái tay hơi gần thân hơn so với cắt bóng thuận tay. Đồng thời phát lực của cẳng tay và cổ tay tập trung hơn.

c. Kỹ thuật cắt bóng xoáy mạnh và không xoáy.

Khi thực hiện kỹ thuật cắt bóng, cần phải cố gắng dùng phương pháp tay gần giống nhau để thực hiện cắt bóng xoáy mạnh và không xoáy, làm cho đối phương khó phán đoán cường độ xoáy của bóng mà đánh bóng chúc lưới, hoặc đánh bóng ra ngoài bàn hoặc đánh bóng cao tạo cơ hội cho mình phản công, đột kích.

Bất kể cắt bóng thuận tay hay cắt bóng trái tay đều cần thiết phải nắm vững kỹ thuật cắt bóng xoáy mạnh và cắt bóng không xoáy.

Khi cắt bóng xoáy mạnh, cẳng tay và cổ tay trong giây lát vợt tiếp xúc vào bóng cần dùng lực thật mạnh, tăng nhanh tốc độ vuốt bóng, dùng lực ma sát vợt vào thân bóng.

Khi cắt bóng không xoáy, trong giây lát vợt tiếp xúc vào bóng, cánh tay kéo theo cẳng tay và cổ tay đẩy đưa ra trước và xuống dưới, nâng nhẹ phần giữa và dưới của bóng, giảm nhỏ sức mạnh ma sát vợt vào bóng. Đợi khi bóng đánh ra khỏi vợt cẳng tay và cổ tay cần đột ngột dùng lực tăng nhanh tốc độ vẩy bóng để động tác cắt bóng không xoáy cơ bản giống với cắt bóng xoáy mạnh làm cho đối phương khó phán đoán.

8. Các kỹ thuật khác.

Các loại hình kỹ thuật của bóng bàn hiện đại có rất nhiều, ngoài các kỹ thuật chủ yếu cơ bản như: giao bóng, đẩy bóng, chặn bóng, công bóng, giật bóng, gò bóng, cắt bóng…v.v. như đã giới thiệu ở các bài viết trên còn có các kỹ thuật khác nữa như: kỹ thuật đập bóng bổng, thả bóng bổng, bỏ nhỏ bóng ngắn…v.v.

a. Kỹ thuật đập bóng bổng.

- Đặc điểm:

Động tác lớn, sức mạnh lớn. Đây là một loại hình kỹ thuật chuyên môn tấn công bóng cao giành điểm. Do việc đập bóng bổng thuận tay có nhiều thuận lợi cho việc phát lực tập trung cho nên đập bóng bổng phần lớn sử dụng thuận tay.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Tùy thuộc vào vị trí bóng đến mà xác định vị trí đứng, nhưng nói chung thường đứng hơi xa bàn. Chân trái đứng ra trước, trọng tâm cơ thể dồn lên chân phải, toàn bộ thân người, tay cùng với lưng, hống xoay sang phải, cánh tay cố găng đưa vợt ra phía sau bên phải cơ thể. Đồng thời cẳng tay xoay trong làm cho mặt vợt nghiêng trước.

Khi bóng tới chạm bàn bật lên tới điểm cao nhất, cùng với sức mạnh chân phải đạp đất di chuyển trọng tâm, lưng háng cũng xoay sang trái. Toàn bộ cánh tay vung lên trên và ra trước, sau đó dần dần chuyển hướng vung vợt xuống dưới phía trước để đón bóng. Khi bóng đến ở thời điểm đi xuống ngang độ cao giữa vai và đầu thì dùng mặt vợt nghiêng trước đập mạnh vào phần giữa bóng. Trong giây lát vợt đánh vào bóng, toàn bộ cánh tay tăng tốc độ phát lực vung vợt xuống phía dưới ra trước sang trái. Cùng lúc đó, lưng háng tích cực dùng lực phối hợp.

Sau khi đánh bóng tay vung vợt theo đà xuống phía dưới ra trước sang trái, đồng thời nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu. Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân phải sang chân trái.

Ngoài ra, đập bóng còn có một loại đánh được gọi là “Rơi xuống đất nở hoa”, tứ là khi đánh bóng sang bật bàn đến độ cao hơn hẳn mặt lưới, cánh tay cầm vợt đánh mạnh từ phía trên sau ra phía trước dưới vào phần giữa của bóng (đập chếch thẳng kiểu đập ruồi). Điểm then chốt của loại đập bóng này là cần phải làm cho đường thảng từ vị trí đập bóng đến điểm rơi bất kỳ trên mặt bàn đối phương không bị lưới ngăn bóng lại.
Cách đánh này đòi hỏi phải có sự phán đoán tinh tế, chuẩn xác đường bóng đi lên sau khi bóng đến bật lên khỏi bàn, nếu không dễ hụt bóng, tạo sai lầm dẫn đến mất điểm.

b. Kỹ thuật thả bóng bổng.

- Đặc điểm:

Vị trí đứng xa bàn, bóng đánh trả cao, đường vòng cung lớn có kèm theo xoáy lên hoặc xoáy nghiêng. Đây là một loại kỹ thuật phòng thủ đặc biệt.
Thả bóng cao tốt nhất là đánh bóng đến vạch đầu bàn của đối phương, lợi dụng sự biến đổi của xoáy lên và xoáy nghiêng tạo ra độ khó hoặc sai sót cho đối phương khi đánh trả. Đồng thời có thể lợi dụng thời gian bay của bóng để tranh thủ thời gian điều chỉnh vị trí đứng và động tác của mình tạo thế chủ động hoặc cơ hội phản công.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Vị trí đứng cách bàn khoảng trên 1m, khi thả bóng bổng thuận tay chân trái đứng ra trước, tay phải co tự nhiên, cẳng tay hơi thấp và xoay trong, đưa vợt xuống phía dưới, sau bên phải thân làm cho mặt vợt dựng dọc hoặc hơi nghiêng trước. Khi bóng đến bay qua thời kỳ điểm cao, cẳng tay và cổ tay vung vợt ra trước và lên trên đón bóng. Khi bóng ở thời điểm đi xuống, dùng mặt vợt vuông góc với mặt đất hoặc hơi nghiêng trước đánh vào phần giữa hoặc phần giữa lệch trên của bóng đến. Trong giây lát vợt đánh vào bóng cẳng tay dùng lực nâng kéo lên trên.

Nếu cần líp bóng xoáy nghiêng thì cùng lúc vợt nâng kéo lên trên sẽ phải tăng thêm động tác và sức ma sát vợt vào bóng đến theo hướng sang trái hoặc sang phải. Sau khi đánh bóng tay vung vợt theo đà ra trước lên trên hoặc ra trước lên trên sang phải hoặc trái, đồng thời nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu.

Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể chuyển từ chân phải sang chân trái.

Thả bóng bổng trái tay về cơ bản giống với động tác thả bóng bổng thuận tay, điểm khác nhau là phương hướng đưa vợt là ngược lại.

c. Kỹ thuật bỏ nhỏ.

- Đặc điểm:

Vị trí đứng gần bàn, điểm rơi gần lưới. Khi đối phương rời xa bàn, bỏ nhỏ có thể điều động đối phương lên trước hoặc làm cho đối phương không kịp lên đỡ bóng mà bị mất điểm hoặc làm giảm chất lượng của bóng đánh trả.
Bỏ nhỏ thường được vận dụng khi bóng đến gần lưới hoặc khi điểm rơi không xa lắm.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Đứng ở vị trí áp sát bàn, khi bỏ nhỏ thuận tay cánh tay phải co tự nhiên, cẳng tay lêch phải đưa vợt sang phải thân người. Cố gắng hết mức làm động tác giống với tấn công bóng, nhưng biên độ đưa vợt không quá lớn. Sau khi bóng đến bật lên khỏi bàn, cánh tay cầm vợt nhanh chóng vung vợt ra trước đón bóng, khi bóng đến ở thời kỳ đi lên, cẳng tay đột ngột xoay ngoài; nếu bóng đến có cường độ xoáy xuống lớn sẽ phải làm cho mặt vợt hơi ngửa sau, đánh nhẹ vào phần giữa và dưới của bóng.

Trong giây lát vợt đánh vào bóng, dùng lực nhẹ nhàng của cẳng tay và cổ tay là chính để đánh bóng. Sau khi đánh bóng tay vung vợt theo đà ra trước nhưng biên độ vung vợt cần cố hết sức nhỏ, đồng thời nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị ban đầu.

Trong quá trình thực hiện kỹ thuật động tác, trọng tâm cơ thể đặt lên cả hai chân...
 

choctietlon

Super Moderators
Kỹ thuật di chuyển bước.

1. Tầm quan trọng của phương pháp bước chân.

Cùng với sự phát triển của kỹ thuật môn bóng bàn, sự biến hóa về đường bóng, biến hóa về điểm rơi khi đánh bóng cũng ngày một phát triển không ngừng. Điều này đòi hỏi vận động viên bóng bàn cần phải di chuyển bước chân nhanh hơn để đảm bảo tính chính xác của động tác chi trên và phát huy sở trường kỹ chiến thuật cá nhân.

Ngược lại, nếu như di chuyển bước không tốt thì không thể đảm bảo cho chi trên thực hiện động tác đánh bóng chính xác.

Tính chuẩn xác của bước chân và chất lượng đánh bóng có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quảcủa việc sử dụng kỹ thuật sở trường của vận động viên.

Vì vậy để đánh bóng bàn được tốt, nhất định phải nắm vững kỹ thuật di chuyển bước.

2. Phương pháp di chuyển bước thường dùng.

a. Bước đơn.

- Đặc điểm:

Động tác nhanh và đơn giản, phạm vi di chuyển nhỏ, quá trình di chuyển bước trọng tâm cơ thể luôn vững vàng thích hợp với việc sử dụng trong khi bóng đến có cự ly gần với cơ thể.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Dùng một chân làm chân trụ, chân còn lại dựa vào đường bóng và điểm rơi của bóng đến để di chuyển bước ra trước, ra sau, sang trái hoặc sang phải.

b. Bước vượt.

- Đặc điểm:

Tốc độ di chuyển nhanh, phạm vi di chuyển lớn hơn bước đơn. Có thể sử dụng khi bóng đến cách thân hơi xa. Vì bước di chuyển thứ nhất có biên độ lớn làm cho trọng tâm cơ thể hạ thấp nên không dễ sử dụng liên tục.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Dùng chân khác hướng với hướng bóng đến đạp đất, chân cùng hướng bước một bước dài về hướng bóng đến, trọng tâm cơ thể di chuyển theo chân này, còn chân kia nhanh chóng bước theo một bước.

Nếu điểm rơi của bóng đến cách than tương đối xa hoặ tương đối gần thì phương hướng di chuyển bước có thể lệch sau hoặc lệch trước.

c. Bước nhảy.

- Đặc điểm:

Phạm vi di chuyển tương đối lớn, trọng tâm cơ thể biến đổi rất nhanh, trước và sau khi di chuyển cự ly giữa hai chân cơ bản như nhau. Có thể sử dụng để liên tục đánh trả bóng đến, sử dụng thích hợp khi bóng đến cách cơ thể tương đối xa.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Trước tiên chân khác hướng với bóng đến bước sang hướng bóng đến, sau đó chân còn lại tiếp tục bước theo sang ngang.

Nếu điểm rơi của bóng đến tương đối xa hoặc tương đối gần thì phương hướng di chuyển đón đánh các loại bóng đến có thể lệch ra sau hoặc ra trước.

d. Bước đôi.

- Đặc điểm:

Biên độ di chuyển lớn hơn bước đơn và nhỏ hơn bước nhảy. Khi di chuyển không có động tác trên không, có lợi cho việc giữ trọng tâm cơ thể ổn định, thiíchhợp sử dụng cho cách đánh cắt bóng, cách đánh tấn công nhanh và giật vồng. Khi công cắt bóng sẽ di chuyển trong phạm vi nhỏ cũng thường sử dụng bước đôi.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Phương pháp di chuyển cơ bản giống với bước nhảy, chỉ khác nhau ở chỗ không nhảy lên trên không. Khi di chuyển, trước tiên chân khác với hướng bóng đến bước sang ngang gần chân cùng hướng bóng đến, sau đó chân cùng hướng bóng đến lại tiếp tục bước sang bên hướng bóng đến.

e. Bước chéo.

- Đặc điểm:

Bước chéo là một phương pháp di chuyển bước có biên độ di động lớn nhất, chủ yếu dùng để đối phó với bóng đến có khoảng cách quá xa với cơ thể, cách đánh tấn công nhanh hoặc giật vồng.

Khi né người tấn công sau đó tạt bóng thuận tay khoảng trống, hoặc khi líp cắt bóng trong lúc di động thường sử dụng bước chéo để đỡ bóng ngắn hoặc đỡ cắt đột kích.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Trước hết dùng chân gần với hướng bóng đến làm thành chân chống đất, bước nhanh chân xa bóng lên trước qua chân chống đất sang phía bóng đến 1 bước lớn, sau đó chân chống đất tiếp tục di chuyển một bước sang ngang theo hướng bóng đến.

f. Bước né người.

Khi bóng đến ở bên trái tay nhưng bản thân lại quyết định sử dụng kỹ thuật công bóng thuận tay để đánh trả thì đòi hỏi phải dùng bước né người. Bước né người căn cứ vào sự khác nhau về vị trí của bóng đến và thói quen của cá nhân có thể phân chia thành né người bước đơn, né người bước vượt, né người bước nhảy.

* Né người bước đơn.

- Đặc điểm:

Tốc độ di chuyển nhanh, biên độ nhỏ. Khi bóng đến thẳng vào vị trí thân người hoặc lệch phải thì sử dụng né người bước đơn.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Chân trái làm trụ, chân phải nhanh chóng di chuyển một bước ra phía sau bên phải.

* Né người bước vượt.

- Đặc điểm:

Tốc độ di chuyển so với né người bước đơn hơi chậm hơn, nhưng biên độ di chuyển lớn hơn so với né người bước đơn. Khi bóng đến ở vị trí về phía bên trái thân thì sử dụng kỹ thuật này.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Chân trái trước tiên bước 1 bước vượt ra trước sang trái, sau đó chân phải di chuyển 1 bước ra sau bên phải, trọng tâm cơ thể rơi vào chân phải. Trong quá trình di chuyển vị trí cần hóp bụng, xoay người để ra vị trí đánh bóng.

* Né người bước nhảy.

- Đặc điểm:

Tốc độ di chuyển chậm, biên độ di chuyển tương đối lớn, có lợi cho việc phát huy công bóng thuận tay mạnh mẽ.

- Thực hiện kỹ thuật động tác:

Chân phải đạp đất làm cho trọng tâm cơ thể nhanh chóng chuyển qua chân trái. Sau đó hai chân hầu như đồng thời rời khỏi mặt đất cùng nhảy sang bên trái 1 bước. Chân phải chạm đất trước, trọng tâm cơ thể rơi vào chân phải, chân trái cũng liền đó chạm đất.....

3. Di chuyển bước chủ yếu của các cách đánh thường gặp.

a. Di chuyển bước của cách đánh đẩy trái công phải vợt dọc.

Vị trí đứng của cách đánh đẩy trái công phải vợt dọc ở gần bàn và lệch trái, chân trái thường ở trước, chân phải hơi ra sau, luôn luôn chuẩn bị phát huy uy lực tấn công bóng thuận tay và né người công bóng. Di chuyển nhanh phạm vi nhỏ sang hai bên phải trái thường được dùng nhiều nhất và cũng phối hợp thỏa đáng với di chuyển phải, trái, trước, sau phạm vi tương đối lớn nên thường lấy di chuyển bước nhảy, bước vượt làm chính kết hợp với bước đơn, bước đôi, bước né người và bước chéo.

b. Di chuyển bước của cách đánh tấn công hai mặt.

Vị trí đứng của cách đánh tấn công hai mặt là gần bàn và hơi lệch trái, hai chân thay đổi trước sau hoặc đứng ngang bằng. Thường dùng bước đơn di chuyển sang trái để né người sang trái chừa chỗ tấn công bên phải. Phương pháp bước chân dùng bước đơn và bước vượt bước nhảy phạm vi nhỏ làm chính kết hợp với các bước khác.

c. Di chuyển bước của cách đánh giật vồng hai mặt.

Vị trí đứng ở cách đánh giật (líp) vồng hai mặt hơi xa bàn, biên độ động tác đánh bóng tương đối lớn. Khi tấn công hoặc phòng thủ đòi hỏi phải quán xuyến phạm vi tương đối lớn cho nên khi di chuyển thường dùng bước chéo và bước nhảy làm chính phối hợp với bước vượt và các loại bước di chuyển khác.

d. Di chuyển bước của cách đánh tấn công nhanh kết hợp giật vồng.

Khi tấn công nhanh kết hợp giật vồng thì lúc tấn công nhanh thường đứng cách bàn tương đối gần, cho nên thường lấy bước nhảy, bước vượt là chính kết hợp với các bước nhảy khác.

Khi chuyển sang cách đánh giật vồng thì dùng bước chéo và bước nhảy là chính kết hợp với các loại bước di chuyển khác.

e. Di chuyển bước của cách kết hợp cắt công.

Cách đánh kết hợp cắt công nói chung là vị trí đứng thường xa bàn và đánh vào bóng ở thời kỳ bóng đến đi xuống thấp, đồng thời còn thường từ phòng thủ chuyển sang tấn công hoặc từ tấn công sang phòng thủ nên đòi hỏi phạm vi di chuyển và quán xuyến rất lớn. Vì vậy phương thức di chuyển bước rất nhiều.

Khi phòng thủ thì dùng bước nhảy và bước chéo là chính, phối hợp với các bước di chuyển khác.

Khi chuyển sang tấn công thì dùng bước nhảy và bước vượt là chính phối hợp với các bước di chuyển khác.
 

choctietlon

Super Moderators
Chiến thuật chủ yếu của môn bóng bàn.


Trong thi đấu bóng bàn thì sự thắng bại, đặc biệt là sự thắng bại trước các đấu thủ có thực lực kỹ thuật tương đương thì thường được quyết định bởi chiến thuật thi đấu tiên tiến, có thỏa đáng hay không.

I. Mối quan hệ giữa chiến thuật với kỹ thuật trong bóng bàn.

Nói chung, chiến thuật bóng bàn thường được cấu thành từ hai loại hình kỹ thuật đơn trở lên kết hợp với nhau. Trong trường hợp đặc biệt thì một loại kỹ thuật cũng có thể cấu thành chiến thuật. Do vậy kỹ thuật bóng bàn là nền tảng của chiến thuật bóng bàn. Chỉ có thông qua tập luyện và nắm vững các loại hình kỹ thuật cơ bản một cách thành thạo mới có thể vận dụng được theo ý muốn các loại chiến thuật trong thi đấu đòi hỏi.

Có chiến thuật tiên tiến và thỏa đáng sẽ thúc đẩy được việc phát huy sở trường kỹ thuật của bản thân được tốt hơn, từ đó phát huy tối đa trình độ bản thân trong thi đấu.

Tùy thuộc vào các cách đánh khác nhau sẽ có các chiến thuật khác nhau. Ví dụ như chiến thuật của cách đánh loại hình tấn công nhanh lấy việc phát huy đầy đủ sự dũng mãnh và tốc độ nhanh trong tấn công nhanh gần bàn, linh hoạt biến hóa nhiều làm chính; còn sử dụng chiến thuật với cách giật líp vồng thì lại lấy việc phát huy tấn công chủ động của bóng giật vồng , xoáy lên mạnh mẽ đồng thời kết hợp với đập vụt mạnh làm chính; chiến thuật của cách đánh kết hợp cắt bóng, tấn công lấy việc phát huy biến hóa độ xoáy độ xoáy cắt bóng dũng mãnh đập vụt tốc độ nhanh làm chính..v.v.

Vì vậy để làm cho chiến thuật có thể phát huy tối đa sở trường kỹ thuật của các loại hình cách đánh khác nhau nên sử dụng các kỹ thuật thích hợp khác nhau để tổ hợp thành chiến thuật thích hợp với cách đánh của mình.

II. Chiến thuật chủ yếu của môn bóng bàn.

Loại hình cách đánh của môn bóng bàn hiện đại có rất nhiều, bất kỳ một loại cách đánh nào cũng đều có rất nhiều chiến thuật đặc hiệu.

1. Chiến thuật đẩy công.

- Đặc điểm:

Chủ yếu sử dụng tốc độ và sức mạnh tấn công thuận tay và đẩy chặn trái tay, đồng thời kết hợp sự biến đổi điểm rơi và biến đổi nhịp độ để áp chế và điều động đối phương nhằm tranh thủ chủ động hoặc giành điểm. Chiến thuật đẩy công là chiến thuật chủ yếu của cách đánh đẩy trái công phải để đối phó lại với cách đánh loại hình công kích. Những vận động viên bóng bàn có năng lực đẩy chặn tấn công 2 mặt và kết hợp công cắt, …v.v thường sử dụng loại chiến thuật này.

- Phương pháp:

+ Đẩy trái công phải.

+ Đẩy chặn né người tấn công.

+ Đẩy chặn, né người tấn công sau đó tạt bóng thuận tay.

+ Đẩy trái kết hợp công trái tay.

+ Đẩy trái công trái tay, sau đó né người tấn công.

+ Đẩy trái, công trái tay né người tấn công, sau đó tạt bóng thuận tay.

- Chú ý:

+ Đẩy, công bóng đều cần có sự biến đổi đường bóng, biến hóa điểm rơi và biến hóa nhịp độ.

Đây là phương pháp chủ yếu của chiến thuật đẩy công giành chủ động và tạo ra cơ hội đập vụt bóng giành điểm.

+ Đẩy chặn: Nói chung lấy ép trái tay của đối phương làm chính. Sau đó đột ngột đổi sang ép thuận tay để tạo ra cơ hội tấn công. Nếu như thuận tay của đối phương tương đối kém thì mới có thể dùng đẩy ép thuận tay của đối phương làm chính.

+ Trong đẩy chặn có thể đột ngột đẩy tăng lực vào trung lộ của đối phương làm cho đối phương khó có thể dùng sức đánh trả. Sau đó có thể dùng đập vụt thuận tay hoặc né người đập vụt.

+ Khi gặp đường bóng có cơ hội tấn công cần quyết đoán đập vụt. Đây là biện pháp chủ yếu để giành điểm của chiến thuật đẩy công.

+ Chiến thuật đẩy công phải kiên trì bán gần bàn, lại không thể phòng thủ “chết” ở gần bàn. Cần phải nắm được sự thay đổi vị trí giữa gần và vừa bàn, nắm vững nhịp độ đối công.

+ Chiến thuật đẩy công đối phó với cách đánh giật líp bóng, nên kiên trì xa bàn là chính. Dùng đẩy nhanh và đẩy chăn tăng, giảm lực, khống chế điểm rơi thừa cơ dùng líp bóng phản công gần bàn hoặc đập vụt giật vồng với sức mạnh trung bình sau đó chuyển sang tấn công liên tục thuận tay.

2. Chiến thuật công 2 mặt.

- Đặc điểm:

Chủ yếu lợi dụng tốc độ và sức mạnh kỹ thuật tấn công bóng thuận tay và trái tay để áp chế đối phương, tranh thủ giành chủ động và tạo cơ hội đập vụt. Chiến thuật tấn công 2 mặt là chiến thuật chủ yếu của cách đánh tấn công 2 mặt đối phó với loại hình cách đánh công kích.

- Phương pháp:

+ Công bên trái, vụt bên phải (tấn công vào góc trái của đối phương, tìm cơ hội vụt mạnh vào chỗ trống bên thuận tay của đối phương).
+ Tấn công đánh 2 góc, vụt mạnh vào trung lộ.

- Chú ý:

+ Tấn công bóng thuận tay và trái tay đều phải có sự biến đổi đường bóng và điểm rơi để tạo ra cơ hội đập vụt.

+ Cần lấy việc ép trái tay của đối phương làm chính, sau đó công kích vào bên thuận tay hoặc trung lộ của đối phương nhằm tạo ra cơ hội đập vụt.

+ Khi có cơ hội cần mạnh dạn và quyết đoán đập vụt.

+ Chiến thuật tấn công 2 mặt trong tình huống chủ động tấn công cần kiên trì gần bàn. Trong tình huống bị động có thể lùi ra sau thích hợp, tiến hành phản công ở cự ly gần và và xa.

+ Chiến thuật tấn công 2 mặt đối phó với cách đánh giật líp bóng, cần kiên trì gần bàn và dùng vuốt bóng nhanh để chống lại bóng giật vồng của đối phương, thừa cơ sử dụng líp bóng phản công hoặc đập vụt, líp bóng với sức mạnh trung bình, sau đó chuyển sang tấn công liên tục.

3. Chiến thuật líp công.

- Đặc điểm:

Liên tục dùng líp bóng nhanh thuận tay tạo cơ hội tấn công. Sau đó sử dụng đột kích và đập vụt để tạo thế chủ động và giành điểm. Chiến thuật líp công là chiến thuật chủ yếu của cách đánh tấn công nhanh đối phó với cách đánh của loại hình cắt bóng.

- Phương pháp:

+ Líp bóng thuận tay sau đó đập vụt.

+ Líp bóng trái tay sau đó đập vụt (nói chung là các vận động viên bóng bàn tấn công 2 mặt khi gặp cắt bóng góc lớn bên trái hay sử dụng).

- Chú ý:

+ Sức mạnh líp, đập vụt bóng cần có tính bất ngờ để đối phương không kịp trở tay.

+ Cần có sự biến đổi đường bóng và điểm rơi khi líp bóng (như líp 2 góc trái, phải; phải ngăn, trái dài …v.v) để điều động, áp chế đối phương giành thế chủ động và tạo cơ hội tấn công.

+ Khi gặp bóng có cơ hội tấn công cần mạnh dạn đập vụt hoặc đột kích (có thể đập vụt vào trung lộ hoặc bên yếu của đối phương).

+ Sử dụng chiến thuật líp công cần có sự kiên trì không nên nóng vội giành phần thắng trong dứt điểm, đối với bóng có cơ hội chưa chắc chắn sẽ không nên đánh bóng qua mạnh...........
__________________
4. Chiến thuật kết hợp líp, vụt, bỏ nhỏ.

- Đặc điểm:

Chiến thuật này là do chiến thuật líp công kết hợp với bỏ nhỏ mà tạo thành. Đây là chiến thuật thường dùng của cách đánh loại hình tấn công đối phó với cách đánh cắt bóng.

- Phương pháp:

+ Khi đập vụt ở chiến thuật líp công hoặc bỏ nhỏ bóng sau đột kích (lúc này vị trí đứng của đối phương nói chung cách bàn tương đối xa nên bỏ nhỏ bóng là ưu tiên tốt nhất).

+ Sau khi bỏ nhỏ trong chiến thuật líp công cần tiến hành khi vị trí đứng của đối phương tương đối xa, đồng thời bóng đến tương đối gần lưới. Như vậy điểm rơi của bóng bỏ nhỏ dễ áp sát lưới, có thể tăng thêm độ khó và cự ly di chuyển ra trước cho đối phương.

+ Khi đập vụt sau khi bỏ nhỏ, nếu đối phương áp rất gần bàn có thể đập bóng nhắm thẳng vào thân người của đối phương. Như vậy thường có thể làm cho đối phương khó có thể né người để đánh trả.

5. Chiến thuật gò công.

- Đặc điểm:

Chủ yếu dùng gò bóng xoáy thấp và biến hóa đường bóng, điểm rơi để khống chế đối phương, thừa cơ công bóng, sau đó sử dụng kỹ thuật đột kích thấp, vụt nhanh hoặc líp nhanh…v.v và chuyển sang tấn công liên tục.

Trong khi gò bóng gặp cơ hội tấn công có thể tiến hành đập vụt, thường thường kèm theo tính đột ngột, bất ngờ có thể giành điểm trực tiếp.
Chiến thuật gò công là chiến thuật bổ trợ không thể thiếu trong các loại hình cách đánh của bóng bàn.

- Phương pháp:

+ Gò bóng thuận tay, trái tay kết hợp líp nhanh, vụt nhanh, đột kích hoặc đập vụt thuận tay.

+ Gò bóng thuận tay, trái tay kết hợp líp nhanh, vụt nhanh, đột kích hoặc đập vụt trái tay.

- Chú ý:

+ Chiến thuật gò công vừa phải cố hết mức vung vợt sớm (trong thi đấu từ gò chuyển sang công gọi là hơi vung vợt) để giành thế chủ động nhưng lại không được có tâm lý nóng vội. Nếu không vung vợt rất dễ mắc sai lầm.

+ Vẩy ngắn trong gò bóng có thể làm cho đối phương không dễ cướp trước (hoặc phát lực) tấn công, có lợi cho việc tạo ra cơ hội tấn công để thừa cơ dùng tấn công thuận tay, trái tay hoặc né người tấn công.

6. Chiến thuật phản công trong cắt bóng.

- Đặc điểm:

Chiến thuật này được kết hợp giữa cắt bóng và công bóng.
Thường là lấy cắt bóng bịt góc tăng xoáy làm chính, thừacơ phản công hoặc lấy cắt bóng xoáy, thấp vững, biến hóa nhiều buộc đối phương líp công trong lúc di chuyển bước, từ đó tìm ra cơ hội phản công.
Chiến thuật này có đặc điểm: “Ẩn, biến mạnh, công”, là chiến thuật chủ yếu của cách đánh kết hợp công cắt.

- Phương pháp:

+ Bịt góc cắt bóng thuận tay, trái tay (tức điểm rơi ẩn gần lưới góc trái của bàn đối phương), kết hợp công thuận tay hoặc né người tấn công khu vực trống bên phải của đối phương.

+ Cắt bóng dài hai góc lớn thuận tay và trái tay kết hợp phản công hoặc né người tấn công trái tay và thuận tay.

- Chú ý:

+ Cắt bóng thuận tay và trái tay đều cần chú ý sự biến hóa cường độ xoáy của bóng đến. Sau khi cắt bóng tăng xoáy có thể dùng động tác cắt tương tự như cắt bóng tăng xoáy để cắt bóng không xoáy. Đây là phương pháp có hiệu quả làm cho đối phương líp bóng cao, từ đó tiến hành phản công, đập vụt giành lợi thế.

+ Khi cắt bóng cần cố gắng hết mức có thể để ép thấp độ vồng, tránh đối phương đập vụt hoặc đột kích.

+ Khi cắt bóng ẩn góc, cần phối hợp cắt bóng góc kia để làm cho đối phương phải luôn đánh bóng trong lúc di chuyển bước.

7. Chiến thuật giao bóng cướp tấn công (Cướp líp giật)

- Đặc điểm:

Chiến thuật giao bóng cướp tấn công là chiến thuật lấy giao bóng có đường bóng xoáy, điểm rơi và tốc độ khác nhau để tăng độ khó khi đánh trả cho đối phương, tạo cho bản thân có cơ hội tấn công hoặc làm giảm hiệu quả bóng đánh trả của đối phương.

Sau đó cướp tấn công giành lại thế chủ động hoặc trực tiếp giành lợi điểm. Đây là chiến thuật và biện pháp giành lợi điểm chủ yếu của tất cả các cách đánh, đặc biệt là cách đánh của loại hình tấn công.

- Phương pháp:

+ Giao bóng xoáy xuống và không xoáy, cướp tấn công.

+ Giao bóng luân phiên thuận tay và trái tay, cướp tấn công.

+ Giao bóng xoáy lên xoáy xuống nghiêng thuận tay và trái tay, cướp tấn công.

- Chú ý:

+ Giao bóng cần có sự biến đổi đường bóng và điểm rơi làm cho đối phương phải chạy chỗ lên trước, sau, phải, trái để đỡ giao bóng.

+ Sau khi giao bóng cần có sự chuẩn bị cướp tấn công để không mất đi cơ hội giành lợi điểm.

+ Bản thân khi giao bóng là loại gì? Đối phương có thể dùng kỹ thuật gì để đánh trả?... Tất cả cần được định sẵn và dự đoán trước khi giao bóng. Như vậy mới có thể làm tốt việc chuẩn bị cướp tấn công.

+ Cướp tấn công cần cố gắng sử dụng hết sức mạnh đánh bóng nhưng lại không thể quá mạnh (cần dựa vào độ cao và tính chất của bóng đến để sử dụng sức mạnh thỏa đáng, tối ưu), nếu không sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng bóng đánh trả.

8. Chiến thuật đỡ giao bóng cướp tấn công (Líp giật công)

- Đặc điểm:

Chiến thuật này là do một số kỹ thuật đơn lẻ hình thành, có tính tấn công mạnh mẽ, có thể biến sự bất lợi của đỡ giao bóng thành thế chủ động, trực tiếp giành điểm.

Đây là chiến thuật chủ yếu của các cách đánh trong môn bóng bàn, đặc biệt là cách đánh loại hình tấn công.

- Phương pháp:

Dùng kỹ thuật vụt nhanh, công nhanh hoặc đột kích với sức mạnh vừa phải để tiến hành đỡ giao bóng cướp tấn công.

- Chú ý:

+ Do đỡ giao bóng cướp tấn công (cướp líp, giật công) thường được tiến hành trong tình huống đối phương chủ động giao bóng và bản thân ở vào thế đỡ giao bóng bị động mà phải sử dụng cách đánh tấn công, do vậy độ khó tương đối lớn.

Đỡ giao bóng cướp tấn công nói chung không thể quá mạnh. Do đó cần xác định phương hướng xoáy của bóng đến, cường độ xoáy và độ cao của bóng đến mà sử dụng phương pháp tấn công thỏa đáng.

Ví dụ: Khi đối phương giao bóng tăng xoáy xoáy xuống, khi đỡ giao bóng cướp tấn công cần sử dụng thủ pháp nâng kéo bóng để tránh rúc lưới, đồng thời sức mạnh công bóng không thể quá lớn. Còn nếu khi đối phương giao bóng xoáy lên xoáy nghiêng thì khi đỡ giao bóng cướp tấn công nên sử dụng thủ pháp đẩy ép để tránh công bóng rúc lưới.
Chỉ có khi nào bóng đến hơi cao mới có thể cướp tấn công với sức mạnh lớn.

+ Sau khi kết thúc động tác đỡ giao bóng cướp tấn công cần chú ý lập tức làm tốt công tác chuẩn bị đối công hoặc liên tục tấn công để tiếp tục giành thế chủ động.

+ Đỡ giao bóng cướp tấn công líp công, giật công thì sức mạnh càng nhỏ càng cần chú ý tới đương bóng và điểm rơi của bóng. Nếu trái tay của đối phương mạnh mà thuận tay yếu thì có thể đánh nhiều về tay thuận của đối phương và ngược lại.
__________________
 

Bình luận từ Facebook

Top