hoanganhauto
Thượng Sỹ
Trong lúc tìm bài thơ Mẹ Yêu giúp Chú Đức, Cháu đã tìm lại được topic này. Trong topic này có nhiều bài viết đầy cảm xúc. Cháu xin phép Chú Út cho cháu khôi phục lại những bài viết này ạ!
1. Một bài viết của một người cùng cơ quan Chú Út (NTBB)
Công ty mình hưởng ứng cuộc thi do Tổng Liên đoàn lao động Viêt Nam tổ chức : Cuộc thi viết "Từ hình ảnh người Mẹ, suy nghĩ về vai trò phụ nữ Việt Nam trong giai đình", và mình là 1 trong các thành viên Ban Giám khảo của công ty. Mình xin giới thiệu cùng ace 1 bài trong số các bài mình đã đọc.
MẸ ĐÃ KHÔNG KHÓC TRONG LỄ TRUY ĐIỆU ANH
Mẹ tôi mất lúc tôi đang học năm thứ 3 đại học, khi ấy bà mới 60 tuổi. Đã nhiều chục năm trôi qua, giờ tôi cũng đã gần bằng tuổi mẹ tôi ngày ấy, nhưng những ký ức về mẹ vẫn luôn hiện về nguyên vẹn cứ mỗi dịp giỗ bà, hoặc khi tôi thắp cho bà một nén hương trong những ngày lễ tết.
Tôi còn nhớ ngày còn đang đi học lớp vỡ lòng (những năm trước 1975 miền Bắc vẫn còn có lớp vỡ lòng), mỗi khi tôi ngồi nhổ tóc bạc cho mẹ ở bậu cửa, mẹ tôi âu yếm nói: “ Mẹ sẽ cố sống cho đến khi thằng Bé vào đại học”. Chả là mẹ tôi bị mắc căn bệnh nội tiết mà thời ấy khả năng y học cũng như điều kiện kinh tế gia đình khó kéo dài được tuổi thọ. Nhưng lúc đó tôi và các anh chị còn quá nhỏ để hiểu được mức độ nghiêm trọng của căn bệnh mà mẹ tôi mắc phải.
Bố mẹ tôi gốc miền Trung, thoát ly và sinh sống ở miền Bắc từ năm 1961. Gia đình đông con (chúng tôi có 8 anh chị em), một mình bố tôi làm công nhân trong một ngành văn hóa với đồng lương mà tôi còn nhớ như in, vì cứ mỗi năm học mới đến là lại phải viết sơ yếu lý lịch với mục “thu nhập bình quân”. Cũng may là hồi ấy, ở miền Bắc, học sinh được Nhà nước bao cấp học phí. Nhưng với tình hình cả nước có chiến tranh, nhất là miền Bắc bị Mỹ đánh phá ác liệt, các nhà máy công xưởng vốn đã khó khăn, nay lại phải tập trung cho tiền tuyến lớn miền Nam, hàng hóa tiêu dùng cho xã hội rất khan hiếm, cuộc sống của hầu hết các gia đình đều rất thiếu thốn. Thậm chí lương thực còn không đủ ăn, mỗi người chỉ được phân phối 14kg lương thực/tháng mà trong đó mỳ sợi, bột mỳ, ngô, khoai lang sắt lát phơi khô… luôn chiếm tỷ lệ cao. Với đàn con 8 đứa đang tuổi ăn tuổi lớn (anh em chúng tôi cách nhau năm một), mà chỉ có thu nhập từ đồng lương công nhân của bố nên chuyện chúng tôi phải nhịn đói đi học là thường xuyên, hoặc khá hơn thì được mẹ cho 1 hào để mua chiếc bán rán “không người lái” (không có nhân). Lâu lâu mới được cái bánh ấy, nhưng có tí nhân là đậu đỏ nấu đường, giá 2 hào. Và mẹ tôi là người “lèo lái” cho cái gia đình nhiều thành viên nhất khu phố. Cứ mỗi dịp cuối tháng là bà lại cắp rổ đi quanh xóm đến các nhà “khá” hơn để vay gạo, vay mỳ; hoặc ra chợ mua thiếu của mấy bác bán hàng thân quen, đến kỳ bố tôi có lương thì trả. Nhờ cái là mẹ tôi hoạt động xã hội rất hăng hái, nào là ban đại diện khu phố, nào là hội liên hiệp phụ nữ…, lại có tài hò Huế góp vui mỗi khi hội họp hay sinh hoạt tập thể, nên hầu như cả thị xã ai cũng biết. Bà lại rất vui tính và nhiệt tình với bà con chòm xóm nên rất được mọi người quý mến. Thế nên mỗi khi mẹ tôi “đi vay gạo” là không bao giờ về không. Ngoài cái tài "ngoại giao” ấy (mà sau này bọn tôi cứ nói đùa là mẹ mình như ông bộ trưởng kinh tế Lê Thanh Nghị, giỏi đi vay viện trợ của các nước XHCN), mẹ tôi còn “chỉ huy” đàn con tăng gia trồng khoai, sắn (củ mỳ) và chăn nuôi gà, heo. Nhà tôi ngay chân núi nên anh em chúng tôi cùng bố mẹ lên núi khai hoang và trồng hàng ngàn gốc sắn mỗi năm. Chất thải từ gà, lợn dùng làm phân bón. Đến mùa thu hoạch, mẹ tôi gánh khoai, sắn ra chợ bán lấy tiền mua rau, tôm, cá, thịt. Nhìn dáng mẹ tôi nhỏ bé oằn lưng với gánh sắn nặng trĩu, chúng tôi thương mẹ quá, có hôm chị lớn của tôi gánh đỡ cho mẹ ra chợ rồi mới đến trường…
Chúng tôi cứ thế lớn lên, trong thiếu thốn (như bao gia đình khác thời ấy), nhưng không lúc nào thiếu sự quan tâm dạy dỗ của bố mẹ. Bố tôi rất hiền và mải chú tâm vào công việc của mình ở công ty. Là "vị lãnh tụ tối cao” trong nhà, bố tôi chỉ “chỉ đạo” những “chủ trương lớn”, còn những lo toan hàng ngày cho đàn con thì mẹ tôi mới là người quán xuyến. Bố mẹ tôi luôn nhắc các con chuyện “đói cho sạch, rách cho thơm”, dù thiếu thốn cũng phải đối xử đàng hoàng và chu đáo với mọi người xung quanh. Trong sự dạy dỗ của bố mẹ (trình độ văn hoá của bố mẹ tôi chỉ là lớp 2, lớp 3), rất may là chúng tôi đứa nào cũng ngoan ngoãn và học giỏi. Hàng năm chúng tôi đem về cho mẹ cả xấp bằng khen, giấy khen về thành tích học tập. Những danh hiệu cao nhất về học tập và hạnh kiểm của học sinh thời ấy ở trường, thị xã, thành phố, và cả miền Bắc luôn có tên anh chị em chúng tôi. Hai người anh thứ tư và thứ năm của tôi còn 3 lần được nhận Giải thưởng Bác Hồ, phần thưởng là cuốn sổ tay có chữ ký sống của Bác - giải thưởng cao quý và vinh dự nhất cho một học sinh xuất sắc toàn diện về học lực và có đạo đức tốt, mà bất cứ học sinh nào thời ấy cũng ao ước và phấn đấu. Mẹ tôi xếp gọn ghẽ và gói ghém rất kỹ các phần thưởng của chúng tôi trong một miếng vải nhung đỏ và thường nói: “Khi nào thống nhất đất nước, về quê, mẹ chỉ mang theo tài sản này”.
Năm 1964, theo lời kêu gọi tổng động viên của Bác Hồ cho cuộc chiến tranh chống Mỹ, anh cả của tôi nhập ngũ vào Trường Sơn, và một năm sau, anh K., anh trai thứ hai của tôi, đang học lớp 10 (lớp cuối của cấp 3 thời ấy) cũng viết đơn tình nguyện lên đường. Anh K., với thể hình to cao đã được phân công vào một đơn vị trinh sát đặc công. Khi anh K. đi bộ đội, tôi mới học lớp 2. Tôi vẫn còn nhớ lần cuối cùng anh K. về thăm nhà trước khi theo đơn vị vào Nam, tháng 6 năm1966. Lúc chia tay, mẹ tôi động viên anh K. với vẻ mặt tươi tắn, nhưng tôi biết mẹ tôi có phần bịn rịn và lo lắng. Sau này, khi mẹ không còn nữa và chúng tôi đã trở thành các ông bố bà mẹ, anh chị em chúng tôi trong các dịp giỗ mẹ mới nhắc lại rằng: ngày xưa mẹ rất thương anh K. vì anh học giỏi, và là “lao động chính” trong nhà (ngoài bố) – anh K. rất khỏe và rất siêng năng trong việc tăng gia khoai sắn và “chỉ huy” đàn em làm theo (lúc đó anh cả tôi phải nghỉ học sớm và đi làm ở xa nhà)…
Anh K. đi B, chiến đấu ở chiến trường Thừa Thiên Huế, cũng là quê của bố mẹ tôi. Anh gửi thư ra thường xuyên, dù rằng thư thường phải mấy tháng mới ra tới nơi. Lúc ấy anh mới chưa tới 20 tuổi, nhưng trong các bức thư, anh viết như “người lớn”. Anh động viên và căn dặn chúng tôi từng đứa một phải làm những gì để giúp đỡ bố mẹ khi 2 anh lớn đi chiến trường xa. Anh thường kể chuyện chiến trường với tinh thần hài hước, hóm hỉnh và lạc quan để cả nhà yên tâm. Trong một bức thư, anh tôi kể là về trinh sát ngay tại làng KĐ, quê của mẹ tôi, và lần mò tìm được ông ngoại chúng tôi theo những thông tin ít ỏi và rất cũ mà mẹ cung cấp. Anh K. còn ngủ với ông ngoại được 1 đêm. “Chiến công” này của anh K. khiến mẹ tôi vui lắm và càng nung nấu ngày về quê xứ Huế khi hết giặc Mỹ.
Nhưng đến năm 1971, khi cuộc chiến tranh chống Mỹ đang vào hồi ác liệt nhất thì gia đình tôi nhận được tin anh K. hy sinh. Giấy báo tử của anh tôi - cũng như rất nhiều giấy báo tử các anh bộ đội khác lúc bấy giờ - chỉ ghi: “Đồng chí … đã hy sinh ngày …tháng …năm 1970 tại mặt trận phía Nam”. Như thế là anh tôi đã hy sinh trước đó 1 năm. Ngày ấy, ở miền Bắc, hầu như gia đình nào cũng có con em nhập ngũ, có người đi B. Và rất nhiều nhà đã trở thành “gia đình liệt sỹ”. Cứ mỗi khi gia đình nào có giấy báo tử thì các tổ chức chính quyền và đoàn thể địa phương tổ chức lễ truy điệu liệt sĩ để ghi nhận công trạng của các anh và gia đình, cũng là để thông báo cho bà con xóm phố biết mà cùng chia buồn. Lễ truy điệu anh tôi và 2 anh nữa cùng khu phố được tổ chức chung trong hội trường của hội phụ nữ thị xã. Buổi lễ diễn ra đơn giản nhưng trang nghiêm và tràn đầy tình cảm chia xẻ. Nhưng điều tôi muốn kể là nhiều ngày tháng sau lễ truy điệu anh tôi, bà con khắp thị xã còn nhắc lại chuyện mẹ tôi đã không hề khóc trong suốt buổi lễ…Tôi còn nhớ, buổi tối ấy mẹ tôi rất bình thản và vẫn xăng xái cùng ban tổ chức lo mọi việc cho buổi lễ truy điệu - mẹ tôi là trưởng ban đại diện và hội phó hội phụ nữ khu phố. Trong khi đâu đó trong hội trường có tiếng sụt sùi thổn thức thì mẹ tôi còn xung phong lên bục micrô hò Huế. Bài hò Huế có tinh thần lạc quan và động viên của mẹ tôi khiến không khí buổi lễ bớt phần trầm mặc, ánh mắt của mọi người tươi tỉnh trở lại. Anh chị em chúng tôi (năm đó tôi mới học lớp 6) tuy rất buồn vì anh trai hy sinh, nhưng cũng hiểu rằng mẹ đã nén nỗi đau riêng để cố gắng động viên tinh thần các bà mẹ khác, có con hy sinh trước anh K., cùng đợt anh K., và có lẽ còn các đợt khác sau này nữa…Mẹ tôi vẫn bình thản như thế cho đến khi buổi lễ truy điệu kết thúc. Mọi người ra về sau khi bắt tay, ôm vai nói những lời chia xẻ, động viên với các thành viên của 3 gia đình liệt sỹ. Tôi cũng nhận được nhiều cái xoa đầu của các bác, các cô chú và lời dặn dò: “Cố gắng lên cháu !”. Về đến nhà, anh chị em chúng tôi hầu như không ai nói với nhau câu nào, chỉ cầm tay nhau cùng ngắm nhìn di ảnh anh K. trong quân phục bộ đội. Rồi chúng tôi đi ngủ trong im lặng và buồn bã. Nhưng khi trời đã về khuya, trong căn nhà nhỏ bé bỗng vang lên tiếng nấc nghẹn của mẹ tôi trong buồng. Lúc này mẹ mới khóc…!
Nhiều chục năm sau, khi đất nước đã hòa bình, trong cố gắng đi tìm hài cốt của anh K, chúng tôi mới biết chính xác ngày anh hy sinh còn trước ngày ghi trong giấy báo tử hơn 1 năm - anh hy sinh năm 1969. Mẹ tôi mất năm 1978, và bà vẫn chưa thực hiện được ước nguyện là đem gói bằng khen, giấy khen thành tích học tập của đàn con về quê miền Nam để khoe với bà con nơi cố hương. Giờ đây, cứ mỗi khi lễ tết, khi nhìn lên ảnh mẹ trên bàn thờ sau làn khói hương, tôi lại nhớ đến giọng hò cao vút trong trẻo của bà trong buổi lễ truy điệu anh trai tôi cách đây 4 chục năm. Tôi thầm ước, con gái tôi mang chút gì “gen” của bà nội.
1. Một bài viết của một người cùng cơ quan Chú Út (NTBB)
Công ty mình hưởng ứng cuộc thi do Tổng Liên đoàn lao động Viêt Nam tổ chức : Cuộc thi viết "Từ hình ảnh người Mẹ, suy nghĩ về vai trò phụ nữ Việt Nam trong giai đình", và mình là 1 trong các thành viên Ban Giám khảo của công ty. Mình xin giới thiệu cùng ace 1 bài trong số các bài mình đã đọc.
MẸ ĐÃ KHÔNG KHÓC TRONG LỄ TRUY ĐIỆU ANH
Mẹ tôi mất lúc tôi đang học năm thứ 3 đại học, khi ấy bà mới 60 tuổi. Đã nhiều chục năm trôi qua, giờ tôi cũng đã gần bằng tuổi mẹ tôi ngày ấy, nhưng những ký ức về mẹ vẫn luôn hiện về nguyên vẹn cứ mỗi dịp giỗ bà, hoặc khi tôi thắp cho bà một nén hương trong những ngày lễ tết.
Tôi còn nhớ ngày còn đang đi học lớp vỡ lòng (những năm trước 1975 miền Bắc vẫn còn có lớp vỡ lòng), mỗi khi tôi ngồi nhổ tóc bạc cho mẹ ở bậu cửa, mẹ tôi âu yếm nói: “ Mẹ sẽ cố sống cho đến khi thằng Bé vào đại học”. Chả là mẹ tôi bị mắc căn bệnh nội tiết mà thời ấy khả năng y học cũng như điều kiện kinh tế gia đình khó kéo dài được tuổi thọ. Nhưng lúc đó tôi và các anh chị còn quá nhỏ để hiểu được mức độ nghiêm trọng của căn bệnh mà mẹ tôi mắc phải.
Bố mẹ tôi gốc miền Trung, thoát ly và sinh sống ở miền Bắc từ năm 1961. Gia đình đông con (chúng tôi có 8 anh chị em), một mình bố tôi làm công nhân trong một ngành văn hóa với đồng lương mà tôi còn nhớ như in, vì cứ mỗi năm học mới đến là lại phải viết sơ yếu lý lịch với mục “thu nhập bình quân”. Cũng may là hồi ấy, ở miền Bắc, học sinh được Nhà nước bao cấp học phí. Nhưng với tình hình cả nước có chiến tranh, nhất là miền Bắc bị Mỹ đánh phá ác liệt, các nhà máy công xưởng vốn đã khó khăn, nay lại phải tập trung cho tiền tuyến lớn miền Nam, hàng hóa tiêu dùng cho xã hội rất khan hiếm, cuộc sống của hầu hết các gia đình đều rất thiếu thốn. Thậm chí lương thực còn không đủ ăn, mỗi người chỉ được phân phối 14kg lương thực/tháng mà trong đó mỳ sợi, bột mỳ, ngô, khoai lang sắt lát phơi khô… luôn chiếm tỷ lệ cao. Với đàn con 8 đứa đang tuổi ăn tuổi lớn (anh em chúng tôi cách nhau năm một), mà chỉ có thu nhập từ đồng lương công nhân của bố nên chuyện chúng tôi phải nhịn đói đi học là thường xuyên, hoặc khá hơn thì được mẹ cho 1 hào để mua chiếc bán rán “không người lái” (không có nhân). Lâu lâu mới được cái bánh ấy, nhưng có tí nhân là đậu đỏ nấu đường, giá 2 hào. Và mẹ tôi là người “lèo lái” cho cái gia đình nhiều thành viên nhất khu phố. Cứ mỗi dịp cuối tháng là bà lại cắp rổ đi quanh xóm đến các nhà “khá” hơn để vay gạo, vay mỳ; hoặc ra chợ mua thiếu của mấy bác bán hàng thân quen, đến kỳ bố tôi có lương thì trả. Nhờ cái là mẹ tôi hoạt động xã hội rất hăng hái, nào là ban đại diện khu phố, nào là hội liên hiệp phụ nữ…, lại có tài hò Huế góp vui mỗi khi hội họp hay sinh hoạt tập thể, nên hầu như cả thị xã ai cũng biết. Bà lại rất vui tính và nhiệt tình với bà con chòm xóm nên rất được mọi người quý mến. Thế nên mỗi khi mẹ tôi “đi vay gạo” là không bao giờ về không. Ngoài cái tài "ngoại giao” ấy (mà sau này bọn tôi cứ nói đùa là mẹ mình như ông bộ trưởng kinh tế Lê Thanh Nghị, giỏi đi vay viện trợ của các nước XHCN), mẹ tôi còn “chỉ huy” đàn con tăng gia trồng khoai, sắn (củ mỳ) và chăn nuôi gà, heo. Nhà tôi ngay chân núi nên anh em chúng tôi cùng bố mẹ lên núi khai hoang và trồng hàng ngàn gốc sắn mỗi năm. Chất thải từ gà, lợn dùng làm phân bón. Đến mùa thu hoạch, mẹ tôi gánh khoai, sắn ra chợ bán lấy tiền mua rau, tôm, cá, thịt. Nhìn dáng mẹ tôi nhỏ bé oằn lưng với gánh sắn nặng trĩu, chúng tôi thương mẹ quá, có hôm chị lớn của tôi gánh đỡ cho mẹ ra chợ rồi mới đến trường…
Chúng tôi cứ thế lớn lên, trong thiếu thốn (như bao gia đình khác thời ấy), nhưng không lúc nào thiếu sự quan tâm dạy dỗ của bố mẹ. Bố tôi rất hiền và mải chú tâm vào công việc của mình ở công ty. Là "vị lãnh tụ tối cao” trong nhà, bố tôi chỉ “chỉ đạo” những “chủ trương lớn”, còn những lo toan hàng ngày cho đàn con thì mẹ tôi mới là người quán xuyến. Bố mẹ tôi luôn nhắc các con chuyện “đói cho sạch, rách cho thơm”, dù thiếu thốn cũng phải đối xử đàng hoàng và chu đáo với mọi người xung quanh. Trong sự dạy dỗ của bố mẹ (trình độ văn hoá của bố mẹ tôi chỉ là lớp 2, lớp 3), rất may là chúng tôi đứa nào cũng ngoan ngoãn và học giỏi. Hàng năm chúng tôi đem về cho mẹ cả xấp bằng khen, giấy khen về thành tích học tập. Những danh hiệu cao nhất về học tập và hạnh kiểm của học sinh thời ấy ở trường, thị xã, thành phố, và cả miền Bắc luôn có tên anh chị em chúng tôi. Hai người anh thứ tư và thứ năm của tôi còn 3 lần được nhận Giải thưởng Bác Hồ, phần thưởng là cuốn sổ tay có chữ ký sống của Bác - giải thưởng cao quý và vinh dự nhất cho một học sinh xuất sắc toàn diện về học lực và có đạo đức tốt, mà bất cứ học sinh nào thời ấy cũng ao ước và phấn đấu. Mẹ tôi xếp gọn ghẽ và gói ghém rất kỹ các phần thưởng của chúng tôi trong một miếng vải nhung đỏ và thường nói: “Khi nào thống nhất đất nước, về quê, mẹ chỉ mang theo tài sản này”.
Năm 1964, theo lời kêu gọi tổng động viên của Bác Hồ cho cuộc chiến tranh chống Mỹ, anh cả của tôi nhập ngũ vào Trường Sơn, và một năm sau, anh K., anh trai thứ hai của tôi, đang học lớp 10 (lớp cuối của cấp 3 thời ấy) cũng viết đơn tình nguyện lên đường. Anh K., với thể hình to cao đã được phân công vào một đơn vị trinh sát đặc công. Khi anh K. đi bộ đội, tôi mới học lớp 2. Tôi vẫn còn nhớ lần cuối cùng anh K. về thăm nhà trước khi theo đơn vị vào Nam, tháng 6 năm1966. Lúc chia tay, mẹ tôi động viên anh K. với vẻ mặt tươi tắn, nhưng tôi biết mẹ tôi có phần bịn rịn và lo lắng. Sau này, khi mẹ không còn nữa và chúng tôi đã trở thành các ông bố bà mẹ, anh chị em chúng tôi trong các dịp giỗ mẹ mới nhắc lại rằng: ngày xưa mẹ rất thương anh K. vì anh học giỏi, và là “lao động chính” trong nhà (ngoài bố) – anh K. rất khỏe và rất siêng năng trong việc tăng gia khoai sắn và “chỉ huy” đàn em làm theo (lúc đó anh cả tôi phải nghỉ học sớm và đi làm ở xa nhà)…
Anh K. đi B, chiến đấu ở chiến trường Thừa Thiên Huế, cũng là quê của bố mẹ tôi. Anh gửi thư ra thường xuyên, dù rằng thư thường phải mấy tháng mới ra tới nơi. Lúc ấy anh mới chưa tới 20 tuổi, nhưng trong các bức thư, anh viết như “người lớn”. Anh động viên và căn dặn chúng tôi từng đứa một phải làm những gì để giúp đỡ bố mẹ khi 2 anh lớn đi chiến trường xa. Anh thường kể chuyện chiến trường với tinh thần hài hước, hóm hỉnh và lạc quan để cả nhà yên tâm. Trong một bức thư, anh tôi kể là về trinh sát ngay tại làng KĐ, quê của mẹ tôi, và lần mò tìm được ông ngoại chúng tôi theo những thông tin ít ỏi và rất cũ mà mẹ cung cấp. Anh K. còn ngủ với ông ngoại được 1 đêm. “Chiến công” này của anh K. khiến mẹ tôi vui lắm và càng nung nấu ngày về quê xứ Huế khi hết giặc Mỹ.
Nhưng đến năm 1971, khi cuộc chiến tranh chống Mỹ đang vào hồi ác liệt nhất thì gia đình tôi nhận được tin anh K. hy sinh. Giấy báo tử của anh tôi - cũng như rất nhiều giấy báo tử các anh bộ đội khác lúc bấy giờ - chỉ ghi: “Đồng chí … đã hy sinh ngày …tháng …năm 1970 tại mặt trận phía Nam”. Như thế là anh tôi đã hy sinh trước đó 1 năm. Ngày ấy, ở miền Bắc, hầu như gia đình nào cũng có con em nhập ngũ, có người đi B. Và rất nhiều nhà đã trở thành “gia đình liệt sỹ”. Cứ mỗi khi gia đình nào có giấy báo tử thì các tổ chức chính quyền và đoàn thể địa phương tổ chức lễ truy điệu liệt sĩ để ghi nhận công trạng của các anh và gia đình, cũng là để thông báo cho bà con xóm phố biết mà cùng chia buồn. Lễ truy điệu anh tôi và 2 anh nữa cùng khu phố được tổ chức chung trong hội trường của hội phụ nữ thị xã. Buổi lễ diễn ra đơn giản nhưng trang nghiêm và tràn đầy tình cảm chia xẻ. Nhưng điều tôi muốn kể là nhiều ngày tháng sau lễ truy điệu anh tôi, bà con khắp thị xã còn nhắc lại chuyện mẹ tôi đã không hề khóc trong suốt buổi lễ…Tôi còn nhớ, buổi tối ấy mẹ tôi rất bình thản và vẫn xăng xái cùng ban tổ chức lo mọi việc cho buổi lễ truy điệu - mẹ tôi là trưởng ban đại diện và hội phó hội phụ nữ khu phố. Trong khi đâu đó trong hội trường có tiếng sụt sùi thổn thức thì mẹ tôi còn xung phong lên bục micrô hò Huế. Bài hò Huế có tinh thần lạc quan và động viên của mẹ tôi khiến không khí buổi lễ bớt phần trầm mặc, ánh mắt của mọi người tươi tỉnh trở lại. Anh chị em chúng tôi (năm đó tôi mới học lớp 6) tuy rất buồn vì anh trai hy sinh, nhưng cũng hiểu rằng mẹ đã nén nỗi đau riêng để cố gắng động viên tinh thần các bà mẹ khác, có con hy sinh trước anh K., cùng đợt anh K., và có lẽ còn các đợt khác sau này nữa…Mẹ tôi vẫn bình thản như thế cho đến khi buổi lễ truy điệu kết thúc. Mọi người ra về sau khi bắt tay, ôm vai nói những lời chia xẻ, động viên với các thành viên của 3 gia đình liệt sỹ. Tôi cũng nhận được nhiều cái xoa đầu của các bác, các cô chú và lời dặn dò: “Cố gắng lên cháu !”. Về đến nhà, anh chị em chúng tôi hầu như không ai nói với nhau câu nào, chỉ cầm tay nhau cùng ngắm nhìn di ảnh anh K. trong quân phục bộ đội. Rồi chúng tôi đi ngủ trong im lặng và buồn bã. Nhưng khi trời đã về khuya, trong căn nhà nhỏ bé bỗng vang lên tiếng nấc nghẹn của mẹ tôi trong buồng. Lúc này mẹ mới khóc…!
Nhiều chục năm sau, khi đất nước đã hòa bình, trong cố gắng đi tìm hài cốt của anh K, chúng tôi mới biết chính xác ngày anh hy sinh còn trước ngày ghi trong giấy báo tử hơn 1 năm - anh hy sinh năm 1969. Mẹ tôi mất năm 1978, và bà vẫn chưa thực hiện được ước nguyện là đem gói bằng khen, giấy khen thành tích học tập của đàn con về quê miền Nam để khoe với bà con nơi cố hương. Giờ đây, cứ mỗi khi lễ tết, khi nhìn lên ảnh mẹ trên bàn thờ sau làn khói hương, tôi lại nhớ đến giọng hò cao vút trong trẻo của bà trong buổi lễ truy điệu anh trai tôi cách đây 4 chục năm. Tôi thầm ước, con gái tôi mang chút gì “gen” của bà nội.